Dàn Ý Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chổng A Phủ
Dàn Ý:
I. Mở bài:
- Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, ông đã để lại cho thế hệ sau số lượng tác phẩm đạt kỉ lục.
- "Vợ chồng A Phủ" là một trong số truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đặc biệt, truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng, khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc và góp phần thể hiện sự bạo tàn của chế độ phong kiến ở miền núi lúc bây giò qua đó lên án, tố cáo chếđộ bạo tàn đó.
II. Thân bài:
+ Ý 1: Cách giới thiệu nhân vật của Tô Hoài
- Tác giả giói thiệu nhân vật bằng một khoảnh khắc trong thực tếđế tái hiện số phận khổ cực của nhân vật. Tô Hoài đặt Mị vào những hoàn cảnh khác nhau đểbộc lộ tính cách cũng như số phận của nhân vật.
Hình ảnh cố hữu của nhân vật này là một người lao động vất vả "ngồi quay sợi đay bên tảng đá cạnh tàu ngựa".
Mị là một phụ nữ bất hạnh, số phận khổ cực, vì dù ngồi quay sợi, đi cõng nước hay chẻ củi, cô đều cúi mặt và mặt buồn rười rượi.
* Mị còn là một người phụ nữ sống cô đon, lạc lõng. Mị sống trong nhà thống lí - một nhà quan giàu có, nhiều bạc, nhiều nưong, nhiều thuốc phiện nhất làng, với thân phận con dâu nhưng phải sống cuộc sống của nô lệ.
Cách thức giới thiệu này tạo được sức hấp dẫn với người đọc đồng thời làm cho người đọc thông cảm và xót thương cho số phận của Mị.
+ Ý 2: Phân tích nhân vật Mị
- Khái quát: với cách giới thiệu độc đáo của Tô Hoài, nhân vật Mị hiện lên thật cụ thể và đầy bất ngờ trong tác phẩm. Số phận Mị thay đổi theo mức độ ý thức về bản thân của nhân vật. Dù bị các thế lực tàn ác chà đạp; phải sống lay lắt, đói khổ, nhục nhã; dù đã có lúc cô cam chịu số phận nô lệ nhưng sức sống âm thầm, tiềm tàng vẫn âm ỉ chảy trong con người Mị giúp cô vượt qua nghịch cảnh, đấu tranh đòi quyền sống cho mình.
- Nhân vật Mị từ chỗ cam chịu khổ cực trong nhcà thống lí cho đến khi cởi trói giải thoát cho A Phủ là một quá trình biên chuyên lâu dài và được tác giả kể lại rất sinh động, chi tiết. Gắn với mỗi không gian sống, Mị lại hiện lên với các sốphận khác nhau.
a. Nhân vât Mi trước khi vềlàm dâu nhà thống lí Pá Tra:
- Trước khi về làm dâu nhà thông lí, Mị là một cô gái vùng sơn cước xinh đẹp, yêu đời, Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê đã ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
- Mị còn là một người con hiếu thảo, có ý thức về mình, khát vọng về cuộc sống tự do. Vì vậy, khi thống lí Pá Tra đến hỏi cưới Mị cho A Sử để xóa đi món nợ truyền kiếp của gia đình, cô đã nói với bố rằng: "Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô, con phải làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu".
- Mị đã từng có một tình yêu rất đẹp.
Mang trong mình tất cả các phẩm chất tốt đẹp đó, những tưởng Mị sẽ có một I ! tương lai tươi sáng, một cuộc sống êm đềm nhưng món nợ truyền kiếp đã vùi ; ị chôn mọi khát khao và biến Mị thành người con dâu gạt nợ cho nhà thống lí.
b. Nhân vât Mi khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra:
- Thời gian đầu về nhà thông lí, Mị có những phản ứng rất mạnh mẽ để cự tuyệt. Thậm chí, cô còn muôn giải thoát bằng lá ngón nhưng vì thương cha nên Mị chấp nhận số phận nô lệ trong nhà thông lí.
- Một thời gian dài ở nhà thống lí, bởi sự tra tấn dã man, sự thống trị bằng thần quyền và cường quyền đã làm biến đổi con người Mị. Từ một cô gái yêu đời với bao nhiêu khát vọng, Mị trở thành cái xác không hồn, thành công cụ lao động, tê liệt hoàn toàn về ý thức sống.
Từ khi cha chết Mị không còn nghĩ đến việc ăn lá ngón nữa, vì ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi.
Mị chỉ còn nhớ đi nhớ lại những việc làm theo năm, theo mùa: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì xe đay dệt sợi; Mị nghĩ mình như con trâu con ngựa.
Mị chấp nhận cuộc sống cầm tù trong nhà thông lí. Cái buồng của Mị nằm chỉ có một ô cửa sổ, đó là "một lỗ vuông bằng bàn tay, trông ra chỉ thấy mờ mờ trăng trắng chẳng biết là sương hay nắng". Mị sẽ ngồi đó trông ra đến khi nào chết thì thôi, cô ngày càng câm lặng không nói.
* Mị mất hết ý thức sống do sự dã man của nhà thống lí, chúng chà đạp Mị bằng những trận đòn roi vô cớ.
Mị còn phải làm những công việc nặng nhọc. Chúng bắt Mị làm việc quanh năm, suốt tháng, bao giờ cũng thế, suốt đời như thế. Thậm chí, cuộc đời Mị còn không bằng kiếp trâu ngựa vì con trâu, con ngựa còn có lúc đứng gãi chân, nhai cỏ còn Mị phải vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm.
Gia đình thống lí đã giam hãm cuộc đời Mị trong kiếp sống cầm tù khiến cho cô 1 quên đi ý thức vê ánh sáng, về cuộc sống tự do.
Sự thống trị bằng thần quyền với những lễ trình ma đã làm cho Mị tự ràng buộc cuộc đời mình vào nhà thống lí và dcẫn đến suy nghĩ bế tắc trong Mị: "Mị nghĩ mình đã bị bắt về cúng trình ma nhà nó thì chỉ chờ đến ngày chết rũ xương ở đây thôi."
Tiểu kết:Thông qua sự thay đổi của Mị từ khi về làm dâu nhà thống lí, Tô Hoài thể hiện tiếng nói đấu tranh với bọn chúa đất, chúng không tiêu diệt người dân lao động mà làm họ tê liệt cho đến mất hết ý thức sống để chấp nhận cuộc đời của những người phụ thuộc, nô lệ.
c. Mi trong đêm tình mùa xuân:
- Những tưởng Mị sẽ cam chịu kiếp sống đó cho đến chết trong căn buồng u tối nhưng ai có thể ngờ được trong dáng hình của "con rùa" ấy vẫn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng mãnh liệt chỉ chờ có cơ hội là bùng phát.
- Đêm tình mùa xuân năm nay Mị chợt thức tỉnh là do sự tổng hòa của nhiều nguyên cớ khác nhau:
Mùa xuân ở Hổng Ngài năm nay rất đẹp và thanh bình (dẫn chứng).
Ngoài đầu núi tiếng sáo gọi bạn đi choi mà lòng Mị thấy bổi hồi:
Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta chưa có con trai con gái Ta đi tìm người yêu
Mị nhớ về quá khứ: rất đẹp và hạnh phúc trong cuộc đời. Ngày Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê đã ngày đêm thôi sáo đi theo cô.
- Trong ngày Tết, Mị cũng uông rượu. Cô lịm mặt ngồi đây, cái say nồng của men rượu làm MỊ nhó lại những điều mà cô đã lãng quên.
- Lòng Mị sống về ngày trước, tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mị đã có ý thức về quá khứ, cuộc đòi mình: nó đẹp, hạnh phúc nhưng đã xa xôi.
Mị có ý thức về thực tại của mình, cô thấy phoi phới trở lại khi nghĩ mình còn trẻ.
- Khát vọng bùng lên, Mị muôn đi choi Tết vì bao nhiêu phụ nữ có chổng còn đi chơi ngày Tết, huống chi Mị với A Sử không có lòng với nhau.
- Quá khứ tươi đẹp mà hiện thực thì phũ phàng, Mị muốn ăn lá ngón mà chết ngay đi để khỏi phải nghĩ, khỏi phải dằn vặt, khổ đau.
- Hành động của Mị sau khi sự sống trở lại:
Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn réo rắt gọi ngoài đường, xoáy sâu vào trái tim đang thổn thức của Mị: "Anh ném pao, em không bắt/ Em không yêu, quả pao rơi rồi". Tiếng sáo như có ma lực cứ rập rờn, bay bổng, thôi thúc Mị khao khát đi chơi, thôi thúc Mị phải hành động.
Mị xắn thêm mõ bỏ vào đĩa đèn khơi thêm ngọn lửa sáng....
Chẳng cần biết A Sử đã bước vào buồng và hỏi: "Mày muốn đi chơi à?", trong lòng Mị chỉ còn tiếng sáo và khát vọng tự do...
Tô Hoài nhận thấy ý thức đang sống dậy một cách mãnh liệt trong con ngiỉời Mị. Mị nhận ra mình còn trẻ, nhận ra kiếp sống cầm tủ bấy lân nay của mình. Khi ý thức trở lai đã thôi !
thúc Mị hành động một cách quyết liệt, không gì ngăn nôĩ: Mị muốn đi chơi. Mị muốn !
thoát ra khỏi cái địa ngục tăm tôĩ đã giam hãm cuộc đời mình, đểtự do thả hốn mình theo
tiếng sáo gọi bạn tình, tìm lại những ngày tươi dẹp đã mất.
- Sức sống tiềm tàng trong Mị cho dù bị chà đạp:
Khát vọng vừa bùng lên đã bị A Sử chặn đứng lại. Sợi dây tàn bạo đã quấn chặt Mị vào cây cột trong căn buồng u tối cho đên sáng hôm sau. Nhưng A Sử chỉ có thể trói được thể xác chứ không trói buộc được tâm hổn đang khát khao sự sống của Mị.
Hơi rượu nống nàn đã nâng tâm hổn Mị bay theo những tiếng sáo mùa xuân: "Tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi."
Mị quên mình đang bị trói, quên đi cảm giác đau đớn đến tê dại: "Mị vùng bước đi". Chi tiết diễn tả thật quyết liệt lòng ham sống của MỊ bất chấp hiện tại tăm tối, khô đau. Cô muốn bước đi, muốn giải thoát cho cuộc đời mình khỏi địa ngục trần gian.
Bước chân vùng đi đã đánh thức Mị trở lại hiện tại, sợi dây siết chặt vào da thịt như đứt ra từng mảng, đau đón. Cô nhận ra hiện thực tàn khốc, mọi giấc mơ tan biến: "Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con trâu, con ngựa."
Suốt đêm hôm ấy, Mị bị trói đứng trong hơi men nồng nàn, trong tiếng sáo tha thiết đầy ai oán. Nhưng sức sống tiềm tàng vẫn âm ỉ cháy trong Mị, tiếp cho cô thêm sức mạnh, quên đi nỗi đau về thể xác để tâm hổn được giải phóng theo tiếng sáo lơ lửng.
Tiểu kết: Khép lại khát vọng được đi chơi, được sống tự do trong đêm tình mùa xuân, Mị lại rơi vào tình cảnh bế tắc hơn trước đó. Nhưng đó cũng là dâu hiệu báo trước sự thay đổi, thoát khỏi kiếp sống khổ cực của Mị.
d. Mi cời trói cho A Phủ và giải thoát cuộc đời mình:
- A Phủ cũng như Mị, là người ở gạt nợ cho nhà thống lí Pá Trá. Vì một lần mải bắt nhím đểhổ ăn mất bò nên A Phủ bị trói đứng vào cột trong tình cảnh đói khát và giá buốt.
- Nhiều đêm Mị ra sưởi lửa, cô hoàn toàn vô cảm với người bị trói đứng là A Phủ, cho dù anh ta có là một xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Thế nhưng khi Mị nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị đã bồi hổi nhớ lại cảnh ngộ của mình khi bị A Sử trói thì Mị đã đồng cảm với những đau khổ mà A Phủ đang phải chịu đựng.
- Chính sức mạnh của tình yêu thương đã khiến Mị cởi trói cho A Phủ, rồi cô quyết định giải thoát cho cuộc đời mình. Bởi cô nhận ra "Ở đây thì chết mất".
Tiểu kết: Cả Mị và A Phủ từng cam chịu số phận nô lệ, chịu sự thống trị của cường quyền và thần quyền nhưng khi cái chết đã cận kề, bản năng sống làm cho họ có sức mạnh và đổng thời cũng khẳng định: Với người Mông ở vùng cao, sức sống mãnh liệt là một trong những phẩm chất tốt đẹp trong con người họ.
III. Kết bài:
- Nhân vật Mị trong tác phẩm được tác giả xây dựng thành một hình tượng đẹp: dù trong đói khổ, lay lắt, nhục nhã, Mị vẫn âm thầm sống và mang trong mình sức sống tiềm tàng.
- Hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm trở thành một tín hiệu nghệ thuật gắn liền với nhà văn Tô Hoài. Tác giả đã lên tiếng ngợi ca, trân trọng những vẻ đẹp của con người miền núi và tố cáo sự dã man của bọn chúa đất đổng thời cũng là bài ca cách mạng khi giải thoát cuộc sống khốn khổ cho người nông dân.
- Dàn ý Cảm nhận về cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (28/06) Nguồn:
- Cảm nhận về phong vị dân gian trong bài thơ Việt Bắc (28/06) Nguồn:
- Dàn ý Cảm nhận bài Vợ chồng A Phủ (28/06) Nguồn:
- Dàn Ý Phân tích hình tượng tiếng đàn Lor-ca của Thanh Thảo (28/06) Nguồn:
- Dàn Ý Phân tích tính dân tộc thể hiện trong bài Việt Bắc của Tố Hữu (28/06) Nguồn:


