Chứng minh ý kiến trong trích đoạn Đất Nước của tác giả Nguyễn Khoa Điềm

Thứ ba , 19/06/2018, 10:50 GMT+7
Có ý kiến cho rằng trong trích đoạn "Đất Nước", tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã bày tỏ những suy tư về đất nước theo chiều dài lịch sử, chiều sâu văn hóa. Em hãy chứng minh ý kiến đó.

Dàn ý:

I.       Mở bài:

-        Đất nước chính là nguồn cảm hứng vô tận của thơ ca, của tâm hổn người nghệ sĩ.

-        Khi đọc "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm ta bắt gặp hình ảnh đất nước theo chiều dài lịch sử, chiều sâu văn hóa.

II.       Thân bài:

1.           Khát quát:

-        "Mặt đường khát vọng" là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm ra đời trong chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ, tại chiến trường Trị - Thiên. Đó là một điểm nóng - trên chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc động, bao tự hào về đất nước và nhân dân.

-      "Đất Nước" là chương V trong trường ca "Mặt đường khát vọng" dài 110 câu thơ (trong chương trình Ngữ văn 12 chỉ trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận của nhà thơ trẻ về đất nước trong cội nguồn sâu xa văn hóa - lịch sử, và trong sự gắn bó thân thiết với đời sống hàng ngày của mỗi con người Việt Nam. Phần thứ hai, cảm hứng chủ đạo về đất nước là sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. Từ đó, nhà thơ nhận diện phát hiện đất nước trên bình diện về địa lí, lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, truyền thông tinh thần dân tộc - nền văn hiên Việt Nam. vẻ đẹp độc đáo của chương V "Đất Nước" là tác giả vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hóa dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục..., cùng với cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc.

2.         Suy tư về đất nước theo chiều dài lịch sử:

-      Nhà thơ cảm nhận đất nước qua dòng chảy thời gian bốn nghìn năm:

Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm Đất Nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuôĩ chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở vềnuôi cái củng con

Ngày giặc ăến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

Nhưng em biết không

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Khi nhắc đến lịch sử dân tộc, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lây "em" để trò chuyện làm cho lời thơ thủ thỉ tâm tình đậm tính tâm sự. Nhắc đến lịch sử dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc đến các triều đại, những người lưu danh sử sách.

-      Nguyên Khoa Điềm làm theo cách cảm nhận của riêng ông: tổng kết lịch sử bằng vai trò của vô vàn những con người bình dị vô danh trong bôn nghìn năm lịch sử, là cuộc chạy thử sức không mệt mỏi của nhân dân cầm trong tay ngọn đuốc sự sống của đất nước Việt Nam bình dị và vô danh:

Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt dặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

-      Nhân dân không chỉ làm ra đất nước mà chính nhân dân giữ gìn và để lại cho các thếhệ sau nhiều giá trị văn hóa, văn minh, giá trị tinh thần và vật chất.

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân ‘Họ đắp dập he bờ cho người sau trồng cây hái trái

-      Điệp từ "họ" có tác dụng nhân mạnh vai trò vô cùng to lớn của nhân dân. "Họ" là biểu tượng cho bao lớp người đi trước, họ chính là ông cha của chúng ta, là tổ tiên của ta và cũng chính là nhân dân hình thành nên đất nước. Quả thật "Đất nước không chỉ tượng trưng cho những bậc vua chúa danh nhân mà đất nước còn tượng trưng cho bao lóp người không tên, không tuổi." Đất nước là những con người bình dị, chân chất giữa cuộc sống đòi thường. "Họ" là hình bóng con người, là nhân dân đã sáng tạo ra những giá trị vật chất hữu hình cùng những giá trị tinh thần vô hình, nuôi dưỡng tâm hổn người dân Việt, dân tộc Việt lớn dần theo chiều dài cùng đất nước.

"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng"

-      Những câu từ: "giữ", "truyền', "gánh" xuất hiện với mật độ dày đặc thể hiện một hình tượng: sự tiến hóa của lịch sử giống như một dao động lớn của cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của nhân dân để lưu truyền mãi mãi ngọn lửa văn hóa qua các thếhệ. Nhò có "họ" giữ mà con cháu hậu thếhôm nay mới có hạt mầm của ngày hôm qua để gieo trồng những mùa vàng bội thu. Hình ảnh "hạt lúa" xuất hiện trong câu thơ còn mở cho độc giả hiểu một cách rộng hơn, đó là kết quả của nền văn minh lúa nước mà nhân dân Đại Việt đã sáng tạo và gìn giữ để truyền lại cho thế hệ mai sau ngọn lửa âm áp: "Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi".

-      Nguyễn Khoa Điềm khẳng định nhân dân là người thắp lửa và cũng là người lưu truyền mãi ngọn lửa văn minh văn hóa qua các thếhệ. Ngọn lửa ấy còn là ngọn lửa trái tim người đang thắp sáng lên để giúp chúng ta bước vào tương lai. Nhân dân còn lưu truyền cho ta giá trị tinh thần ngàn đời của đất nước, con người Việt Nam:

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Câu thơ đọc lên nghe rẩt bình dị nhưng lại sâu sắc khôn cùng bởi giọng điệu chính là tiếng nói của nhân dân đất Việt, là tiếng nói để duy trì nòi giống cha ông để làm nên đất nước muôn đời. Giữa "họ" và "con" là những thếhệ tiếp nhau. Chính nhờ họ mà những đứa trẻ Việt Nam được lớn lên trong tiếng nói của cha ông. Như vậy nhân dân không chỉ sáng tạo ra thế giới tinh thần mà còn truyền lại cho con cháu mai sau.

-      "Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân": Nhân dân cần mẫn, nhân dân lao động sáng tạo để từ đó làm nên đất nước to lớn hơn. Để cho con cháu hôm nay gặt hái những trái ngọt.

-      "Họ đắp đập be bờ cho người sau trổng cây hái trái". Nói đến đây ta thấy Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là một hồn thơ da diết với nhân dân đất Việt mà còn là người yêu nước tha thiết, bởi thế đất nước đi vào thơ ông không phải là một cái gì hình tượng, khó có thể diễn đạt bằng lời mà đất nước đã được nhà thơ cụ thể hóa có tầm

vóc, có dáng hình, có người "đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái". Đây là một tư tưởng rất độc đáo và tiến bộ.

=> Đoạn tho đã thể hiện rõ vai trò lớn lao của nhân dân trong việc lưu giữ và truyền lại cho con cháu mai sau mọi giá trị vật chất và tinh thần.

3.            Chiều sâu văn hóa:

-     Sự sống của một cộng đổng trong thời gian được kết tinh thành lối sống, vẻ đẹp tâm hồn riêng để phân biệt với các dân tộc khác, nghĩa là kết tinh thành bản sắc dân tộc. Khi nhắc đến văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến những sản phẩm văn hóa nhỏ nhoi, bình dị như: miếng trầu của bà, thói quen búi tóc của mẹ, tình nghĩa của cha.... Nghĩa là văn hóa của những người bình dân.

-     Theo nhà thơ, làm nên truyền thống văn hóa chính là nhân dân

♦      Nhân dân trong quá khứ là ông bà, cha mẹ:

Trong anh và em hôm nay Đều có một phẩn Đất Nước

♦      Còn tương lai, nhân dân chính là con ta: "Mai này con ta lớn lên"

-     Đất nước là của nhân dân nên nhân dân phải có trách nhiệm với đất nước.

Em ơi em

Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời..

-     Chương V của trường ca "Mặt đường khát vọng" khép lại bằng tiếng hát ngân vang trên sống "Gợi trăm màu trên trăm dáng sống xuôi". Tiếng hát của người chèo đò vượt thác đó chính là nhịp sống, nhịp lao động lạc quan của những con người:

+ Thủy chung say đắm: "yêu em từ thuở trong nôi"

+ Quý trọng lao động: "quý công cầm vàng những ngày lặn lội"

+ Quyết liệt trong chiến đấu: "trổng tre đợi ngày thành gậy"

·    Nghệ thuật:

-     Đoạn thơ giàu chất triết lí, suy tưởng.

-     Lời thơ đậm chất văn xuôi và chất liệu văn hóa dân gian.

-     Tư tưởng bình dị mà mới mẻ, lớn lao.

III.    Kết bài:

-     Đoạn trích "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm thể hiện những phát hiện mới mẻ của nhà thơ về đất nước: đất nước không phải là những điều xa xôi, lạ lẫm mà nó ở quanh ta, ngay trong đời sống mỗi con người hóa thân, kí thác bao đời của nhân dân.

-     Với nhà thơ, đất nước là di sản văn hóa tinh thần, giá trị vật chất, ý niệm không gian và thời gian cùng chiều dài lịch sử.

Nguồn: