Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi

Thứ sáu , 31/03/2017, 11:16 GMT+7
Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu / Tiếng gươm khua, những tiếng kêu xé lòng. Tố Hữu - một nhà thơ hiện đại đã viết về người anh hùng lỗi lạc của dân tộc như thế, còn chúng ta mỗi khi nghĩ về Nguyễn Trãi là nghĩ về một nhân cách cao đẹp, một tấm gương trong sáng vô ngần.
Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi còn là một nhà thơ lớn đã để lại nhiều áng văn hay cho đời, trong đó toát lên một tình yêu thiên nhiên tha thiết. Dù vui dù buồn thiên nhiên đi vào trong thơ Nguyễn Trãi cũng đều hết sức sinh động.
 
Nguyễn Trãi là một nhà thơ có tâm, có tầm và có tài, luôn đau cho nỗi đau chân tình thế thái, một con người nhân nghĩa, hết lòng vì nước vì dân, nhưng sông trong cái thời đại ấy, cái thời đại mà chỉ có những nịnh thần ton hót, Nguyễn Trãi đã trở thành một con người “ưu thời mẫn thế”. Chính cái xã hội nhiễu nhương dơ bẩn kia đã đẩy người anh hùng dân tộc, người đã từng vào vực thẳm của nỗi đau. Trước đen bạc của cuộc đời những lí tưởng cao đẹp về một viễn cảnh tương lai được Nguyễn Trãi vẽ ra coi như bị vùi lấp. Và mỗi khi như thế con người có tấm lòng nhân ái cao cả đó lại tìm về với thiên nhiên, bởi chính thiên nhiên là nơi sẽ xoa dịu nỗi đau cho người thị sĩ tài năng ấy.
 
Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên như là yêu chính cuộc đời của mình vậy. Nhà thơ bao giờ cũng gần gũi chan hòa với thiên nhiên. Có nhiều lúc thi sĩ và cảnh vật như đều muôn hòa vào nhau làm một. Tình yêu mà Nguyễn Trãi dành cho thiên nhiên có lẽ nó không chỉ dừng lại ở yêu, ở say mà dường như tác giả đã dam mê. Những lúc buồn vui Nguyễn Trãi đều tìm đến với thiên nhiên, để chia sẽ những ngọt ngào đau đớn, nỗi phiền muộn hay niềm lạc quan. Thiên nhiên như là người bạn tri âm tri kỷ của con người vĩ đại ếy. Và mỗi lúc như thế dường như cái cảnh vật cỏ hoa trăng núi... mà ta thường nghĩ là không có hồn ấy bỗng sông động hẳn lên như hiểu được tâm tư của con người.
 
Các thi sĩ thời trước thường hay mượn cảnh thiên nhiên để nói hộ cho nỗi niềm thầm kín của mình và những lúc buồn chán, họ cũng thường tìm đến với vũ trụ bao la, với chim muông cây cỏ nhưng ta ít thấy ai có cái “say” thiên nhiên như Nguyễn Trãi. Chắc cũng chính vì thế mà ta thấy thiên nhiên trong thơ ông như hiểu thấu lòng người, quả là “người buồn cảnh củng đeo sầu ”. Nguyễn Trãi mở rộng lòng mình để đón lấy ngọn gió trời đất mát lành ấy nhiều nhất có lẽ là lúc ông đã về ở ẩn. Giờ đây cảnh triều đình đã tạm khép lại, Nguyễn Trãi đi từ cái niềm vui an ủi duy nhất bằng cỏ cây hoa lá, vì thế nên trong thời gian này ông viết nhiều thơ về thiên nhiên. Đặc biệt trong những chùm thơ viết về đề tài này, nỗi buồn và niềm vui xen lẫn vào nhau và nhìn chung thì buồn nhiều hơn vui bởi một thực tế trong lòng ông vết thương còn chưa lành hẳn. Nhưng điều này không mảy may làm mờ nhòa đi cái hồn thơ trong sáng, nhẹ nhàng, giản dị và cũng rất đỗi chân chất mộc mạc của người anh hùng dân tộc. Ta hãy lắng nghe tâm hồn nhà thơ khẽ rung lên trong một đêm mưa.
 
Phòng quạnh thâu đêm vắng
Nghe trời rả rích mưa
Buồn buồn lay gối khách
Giọt giọt điểm canh tà
Liễu trúc gõ song cửa
Theo chuông vào giấc mơ
Ngâm xong nằm chẳng ngủ
Đến sáng nhặt rồi thưa.
 
Đọc bài thơ, ta thấy tác giả mượn tiếng mưa rơi ngoài trời để nói hộ lòng mình. Ngoài trời mưa rơi và bão tố giăng trong lòng nhà thơ bao nhiêu là môi. Trong cái đêm vắng lạnh chỉ có một mình tác giả, nỗi cô đơn vây kín trong lòng thế nhưng thi sĩ vẫn đếm tiếng mưa rơi và hình như là đếm từng giọt nghe chừng thích thủ lắm. Cả đêm không ngủ, mà chỉ chập chờm theo dõi bước đi, sự nhỏ giọt của thiên nhiên, có lẽ tác giả đang mang một nỗi niềm trắc ẩn chi đây? Nhưng dù nghĩ như thế nào, diễn dạt ra sao điều đó chưa bàn tới. Ta chỉ biết rằng trong cái đêm một mình quạnh quẽ ấy mà tác giả như nhìn thấy bằng cách cảm nhận từ một đêm khuya, vắng vẻ có tiếng mưa rơi, có khóm trúc và có tiếng chuông giá như một người bình thường thì có lẽ buồn đến nao lòng, ơ đây tác giả cũng buồn nhưng không phải vì khung cảnh của thiên nhiên mà có lẽ là vì một lẽ khác cao cả hơn, lớn lao hơn. Còn thiên nhiên bao giờ cũng như trò chuyện cùng tác giả và với tình yêu thiên nhiên như thế thử hỏi “khách” làm sao mà buồn vì nó được.
 
 
Đọc những câu thơ dưới đây ta mới thấy lòng tác giả đau đớn biết bao khi thấy cảnh vật quê hương tiêu diều. Thế mới biết Nguyễn Trãi yêu quê hương và gắn bó với thiên nhiên biết nhường nào.
 
Mười năm xa cách chốn non nhà
Tùng cúc quay về nửa xác xơ
Đã hẹn cùng khe đâu phụ ước
Cúi đầu đất hụi chỉ thương ta.
 
Đứng trước một cảnh tượng thiên nhiên, một hiểu hiện của tạo vật tồn tại, “Nguyễn Trãi có một năng lực rung cảm lạ thường. Dù là một thoáng gió một gợn mày, một tiếng chim kêu, một nhành cúc nở, dù là những cảnh hao la hùng vĩ, hay chỉ một cây chuối, tâm hồn nhà thơ đều gắn bó với chúng, quyện lấy chúng, bao trùm lấy chúng và chan hòa với chúng trong một niềm thương cảm như giữa những tâm hồn bầu bạn, không ai còn bí mật với ai”. (Nguyễn Trãi). Cảnh vật thiên nhiên dưới ngòi bút Nguyễn Trãi sinh động hẵn lên, sông lên bằng sức sông riêng, bằng đủ màu sắc, âm thanh, hương hoa và lắm khi bằng đủ đặc điểm độc đáo của nó nữa.
 
Tầm hồn tác giả lắng xuống, xúc động trong một bữa mưa xuân thật đẹp đẽ và duyên dáng ý vị.
 
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan.
 
“Trong tiếng cuốc kêu” dường như tác giả nuôi và muôn níu kéo một chút gì còn lại của mùa xuân. Cái cảnh mưa xuân cùng với hoa xoan nở thật là đẹp, vẻ đẹp dịu nhẹ và phảng phâT một chút buồn của cảnh vật, của thi nhân. Hoa xoan - lần đầu tiên trong thơ Việt Nam chúng ta xuất hiện một loài cây mới, cây xoan - cây thầu đâu, nó khác xa muôn thuở với mai, lan, tùng, cúc thế mới biêt Nguyễn Trãi nâng niu cảnh vật từ những cái nhỏ bé từ những hình ảnh mộc mạc mà thời bấy giờ ít ai để ý đến. Nguyễn Trãi không những quan tâm đến, nhà thơ yêu thương nó, phát hiện ra cái vẻ đẹp hoàn mĩ của nó. Nguyễn Trãi miêu tả cây hoa xoan thực là tươi mát. Đó là một hình ảnh giản dị và thắm thiết, thắm thiết như lòng con người ta vậy. Nhiều khi chúng ta thấy nhờ tâm hồn yêu thương rộng lớn của nhà thơ, nhờ con mắt tinh đời và quán xuyến, nhờ tứ thơ dạt dào muôn dặm Nguyễn Trãi nâng cao hẳn cuộc sóng của cảnh vật lên. Cảnh vật thiên nhiên nhờ ông mà có tình có ý, có cả cá tính, tâm tư, khi kín đáo khi sôi nổi, lúc trìu mến, lức mỉa mai nhưng tất cả như chủ nhân của chúng đều trong trắng, cao khiết trung hậu hiền hòa, tất cả đều bừng sáng lên, niềm nở ra, dịu dàng và đằm thắm để đón lấy, để nâng niu để vỗ về an ủi những tâm hồn đau khổ.
 
Khách đến chim, mừng, hoa xây động
Chè tiên nước kín nguyệt đeo về.
 
Trong cái nhìn của nhà thơ, cảnh vật là một thế giới sông, có hồn và nhà thơ thương yêu, nuông chiều chúng, trân trọng và không dám làm đau, làm tổn thương đến chúng. 
 
Khi muốn câu cá để giải sầu tác giả lại sợ chúng không sống được nữa.
 
Người tri âm ít, cầm nên lặng
Lòng hiếu sinh nhiều, cá ngại câu.
 
Hay khi có một ánh trăng in trong dòng nước lại không dám thả cá sợ nó bơi lội làm tan vỡ cả ánh trăng. Dường như tác giả cảm thấy đau lòng nếu như “trăng vỡ” vì trăng vỡ khác nào “lòng vỡ”. Tác giả yêu mến cảnh vật đến nỗi cái tiêu điều, vỡ nát của chúng như chính cái tiêu điều vỡ nát một khoảng tâm hồn trong con người tác giả. Cũng yêu ánh trăng nhưng ta thấy Nguyễn Trãi khác xa với Lí Bạch thời trước của Trung Quốc đã nhảy xuống nước vớt trăng lên. Nguyễn Trãi thì chưa đến nỗi ngớ ngẩn như thế nhưng cái tình đôi với trăng thì có lẽ cũng không thua kém gì. Một cành cây tác giả còn không dám bẻ vì sợ “thương cành ngọc” huống hồ là cả mặt trăng to và tròn như thế. Nhà thơ đành phải nhờ đến thuyền để chở, chở trăng và chở cả khói mây.
 
Khi thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then.
 
Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên và nhiều khi ông tỏ ra rất phong tình với chúng, song có lúc chúng chỉ dường lại ở chỗ.
 
Cò nằm hạc lẫn nên bầu bạn
Ú ấp lòng ta làm cái con.
 
Nhưng rồi trong một bài thơ khác, cái tình cảm ấy lại biểu hiện ở một sắc thái riêng.
 
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, màu thâu đêm.
Tình như một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem.
 
Hình ảnh cây chuôi là một hình ảnh thôn quê nhưng Nguyễn Trãi không ngại ngần đưa nó vào trong túi thơ của mình. Hình như cảnh vật cũng muôn ve vãn lả lơi với nhau. Còn con người mặc dầu phong tình đấy nhưng rất nhẹ nhàng, kín đáo và tế nhị, sẽ sàng “gượng mở” chứ không dám mở, sợ lay dộng cái tình cảm thiêng liêng ấy. Nguyễn Trãi rất phóng túng với thiên nhiên, đôi lúc tâm hồn ông md ra ca hát với thiên nhiên như một tấm lòng sẵn sàng ân ái, hết sức thơ mộng.
 
Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu.
 
Ý thơ nhẹ nhàng thanh thoát và dường như mọi cảnh vật đều chuyển động, đều có sức sông ngầm của nó. 
 
Đặc biệt trong bài Côn Sơn ca thể hiện sức sống tình yêu, sự gắn bó giữa người và cảnh thật là khắng khít và những câu thơ giăng mắc khẽ khàng càng khiến cho con người, cảnh vật như ở cõi tiên.
 
Côn Sơn có suối rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm.
 
Trên rừng thông mọc như nêm
Tìm nơi bóng mát ta lèn ta nằm
Trong rừng có bóng trúc râm
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
 
Thiên nhiên như tắm đẫm trong tâm hồn con người Nguyễn Trãi. Với tình yêu thiên nhiên tha thiết Nguyễn Trãi đã quên bớt đi phần nào những nhọc nhằn đớn đau mà triều đình đã gieo rắc cho ông. Ông yêu thiên nhiên đến nỗi mà Xuân Diệu và Huy Cận đã nói “Nguyễn Trãi thở bằng phong cảnh, tỏ tình bằng phong cảnh”. Quả thực là vậy. Dầu trong lòng ông dù khi còn giúp nước hay về ở ẩn dật thì bao giờ cũng giữ vẹn mối tình với non nước.
 
Bụi một tấc lòng ân ái củ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông.
 
Và thiên nhiên không bao giờ vắng bóng trong dòng máu nóng đang tuôn rào trên khắp cơ thể của con người có tâm hồn lộng gió thời đại ấy.
Nguồn: