Thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi

Thứ sáu , 31/03/2017, 11:28 GMT+7
Thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi. Bụi một tấc lòng ân ái cũ / Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông. Con người Nguyễn Trãi là như thế. Dường như ông sinh ra là để cứu dân giúp nước vậy.
Có lẽ trong cuộc đời của con người anh hùng dân tộc ấy chưa lúc nào thôi nghĩ về một đất nước mà ở đó người dân đều có quyền bình đẳng, được sống một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vì lẽ đó mà trong thơ ông đã thể hiện một tấm lòng ưu ái đối với dân nước.
 
Tư tưởng cốt lõi và quán xuyến suốt cuộc đời của Nguyễn Trãi là tư tưởng yêu nước thương dân. ở Nguyễn Trãi yêu nước và thương dân luôn đi đôi mật thiết, gắn bó mật thiết với nhau. Vì thế mà thơ văn của Nguyễn Trãi đã thể hiện một tấm lòng son sắt, một nhiệt tình nồng thắm đối với đất nước và nhân dân. Từ thuở thiếu thời, Nguyễn Trãi đã khẳng định cho mình một lối sống, đó là cống nến đời mình cho nước cho dân.
 
Đất nước Vi Nam bôn ngàn năm dựng nước và giữ nước đã có lớp lớp những người đi trước từng lấy xương máu của mình để bảo tồn. dân tộc. Yêu nước là một trong những giá trị cơ bản của văn hóa xưa nay. Cảm hứng yêu nước đi qua suốt hàng ngàn năm, văn học đã góp phần tạo nên sức mạnh của dân tộc trong công CUÔC giữ gìn bờ cõi. Và tấm lòng ưu ái của Nguyễn Trãi đối với nước nhà cũng là để thể hiện bước tiếp bước trong phong trào yêu nước của dân tộc ta. Nhưng cái “lòng ưu ái” của Nguyễn Trãi lại có những sắc thái mới so với những thời đại đã lần lượt đi qua trước đó.
 
Văn học từ thế kỷ X cho đến thế kỷ XIX cái nội dung cốt lõi, xuyên suốt và thấm nhuần trong từng tác phẩm ấy là tư tưởng yêu nước và nhân bản. Là một người đã từng lăn lộn trong phong trào đấu tranh rộng lớn của dân tộc, đã từng sông gần nhân dân trong phần lớn cuộc đời mình, là một nhà văn hóa dân tộc, Nguyễn Trãi rất có ý thức về những giá trị tinh thần của đất nước Việt và con người Việt. Bằng ngòi bút sắc bén và tài hoa tác giả đã thể hiện tấm lòng đó qua thơ ca của mình và được mọi người bao đời nay cảm kích vì tấm lòng nhân ái bao la, vì một chí công vô tư của người anh hùng thời đại.
 
Đền thờ Nguyễn Trãi ở Hải Dương
 
Nguyễn Trãi không chỉ là một người chiến sĩ trên chiến trường mà qua thơ văn, Nguyễn Trãi vẫn tỏ ra là một chiến sĩ kiên cường, tích cực đấu tranh cho nền độc lập dân tộc, cho sự cường định của đất nước. Đó chính là tấm lòng của Nguyễn Trãi luôn vì nghĩa lớn. Trước hết, ta hãy đi vào khám phá cái khoảng tâm hồn đôi với suôt nguồn thơ bừng bừng khí thế của ức Trai. Nguyễn Trãi tồn tại một ngày nào trên cõi đời thì ngày đó còn sôi sục trong ông quyết tâm mong muôn đem hết tài sức ra phò vua giúp nước. “Nếu chúng ta chịu khó bỏ ra đôi chút thời giờ để cho tâm hồn lắng xuống, để tâp trung những hiểu biết sâu sắc với người xưa, Nguvễn Trãi có thể làm cho lòng ta rung động và xao xuyến” (Nguyễn Trãi) vì những nghĩa tình ngày đêm đang tha thiết chảy trong dòng máu của ức Trai.
 
Tấm lòng của Nguyễn Trãi đôi với đất nước có lẽ không ai còn lạ, nhưng mỗi khi chúng ta đọc những câu thơ, bài ca ấy lên ta vẫn không khỏi thảng thốt giật mình bởi một đức hi sinh cao cả: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”.
 
Nguyễn Trãi đã từng đêm thức trắng vì lòng ưu ái, lòng ưu ái ấy ông cảm thấy nó dạt dào như ngọn thủy triều, nó trắng và cứng rắn như viên ngọc thạch.
 
Bui một tấc lòng ân ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông.'
 
hay là:
 
Bui có một tấm lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.
 
Thế đấy, tư tưỏng tình cảm của tác giả bao giờ cũng không đứng yên mà luôn nổi sóng cồn cào không ngừng không nghỉ. Đó là những nghĩ suy trăn trở lo âu cho đất nước. Tấm lòng ông bao giờ cũng trải rộng ra với một đức hi sinh cao cả, không hề nghĩ đến riêng mình mà chỉ một lòng vì tương lai mai sau của nước nhà.
Trong bài văn chép chuyện của cụ Bàng Hồ, Nguyễn Trãi cũng nói đến lòng ưu ái của Trần Nguyên Đán là “Thân cụ tuy gửi suối mừng, nhưng chí cụ vẫn để vào nhà nước, tấm lòng ưu ái của cụ chưa từng có lúc nào khuây”. Không biết được tiếp dòng máu đã từng ẩn chứa trong có thể của người ông đáng kính hay sao mà dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi cái nỗi niềm ấy cũrig thường đi về.
 
Tuế nguyệt vô tình song mấn bạch
Quân thân tại niệm thổn tâm đan.
 
Tâm lòng của Nguyễn Trãi đối với nước không chỉ thể hiện bằng một lời nói suông mà cái quan trọng là Nguyễn Trãi đã hành động. Yêu nước thì không phải chỉ dừng lại chỗ ngày đêm canh cánh bên mình một sự lo âu thắc thỏm thì mới gọi là yêu. Khi yêu nước tấm lòng của Nguyễn Trãi đi xa hơn một bước, có nghĩa là yêu nước thì tức là căm thù giặc. Lòng yêu nước thiết tha, chí căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết chiến qự> ết thắng giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc được Nguyễn Trãi bộc lộ trong những câu văn đọc lên nghe thật xúc động lòng người.
 
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối
Quên ăn ức giận sách lược thao suy xét đã tinh
Ngẫm trước đến nay lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
 
Thật tài tình khi nhà thơ viết những dòng thơ như nổi lửa. Ý thơ mạnh mẽ căm thù ngút ngàn, càng đọc càng thấy cái không đội trời chung của tác giả với quân xâm lược. Thế nhưng ẩn nấp sau những câu thơ bừng bừng sát khí ấy, ta thấy được cái lòng trung thành, hiếu nghĩa đối với nước nhà. Cũng chỉ vì hai chữ “ưu ái” ấy mà đã khiến cho nhà thơ mất ăn mất ngủ, khiến cho tâm hồn nhà thơ nhức nhôi không yên. Và cái không yên đó đã phải trở thành hành động.
 
Gươm mài đá đá núi phải mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
 
Xuất phát từ lòng nhân nghĩa và cũhg chỉ vì muôn đất nước được thanh bình, không muôn chiến tranh lại tái diễn lần nữa nên Nguyễn Trãi đã từng tha chết cho kẻ thù. Và cao cả hơn thế nữa là cung cấp lương thực, phương tiện cho chúng để chúng trở vế xứ sở mà chúng đã từng sinh ra, trả lại “trời yên biển lặng” cho đất nước đại Việt. Hành động ấy vừa thể hiện được cái tâm lẫn cái tình của Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc.
 
Nguyễn Trãi đã công hiến trọn vẹn cả cuộc đời mình cho Tổ quốc, cho dân tộc. Không những ông lớn lao trong những hoạt động chính trị quân sự, ngoại giao, ông còn lớn lao trong cả thơ văn. Cái triết lí bao trùm lấy cả hành động suy nghĩ của ông, cũng như nguồn chảy trong thơ văn ông là lòng ưu ái với đất nước sáng ngời. Vì vậy ta không còn nghi ngờ gì nữa, Nguyễn Trãi là cái đỉnh cao nhất về tư tưởng tiến bộ của thời đại bấy giờ. Sông trong một chế độ xã hội phong kiến tàn khốc, ông có nhiều tâm sự u uất đau thương nhưng “tâm hồn ông bao giờ cũng trong sạch như ngọn lửa thủy ngân cháy trong lò luyện thuốc trường sinh bất tử”. Có lẽ không cần phải tìm hiểu nhiều từ hai áng văn thơ kiệt tác là Cáo bình Ngô và,Phú núi Chí Linh đã toát lên một tinh thần yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, một niềm tự hào dân tộc lồng lộng như trời thanh, vằng vặc như trăng rằm.
 
Nhưng điều đáng kính phục là khi chiến tranh đã đi qua, quan lại trong triều lúc bấy giờ tranh giành quyền chức và hãm hại lẫn nhau thì Nguyễn Trãi vẫn là một người vô cùng thanh khiết, thiết tha vì đất nước. Bị gièm pha, bị chèn áp ông rất đau khổ, không phải đau khổ về những thiệt hại vì sự gièm pha, chèn ép gây ra cho bản thân mà chính vì thấy “đạo mình” không được dùng, những hoàn hảo “trí quăn trạch dân” những ước vọng “trị quốc bình thiên hạ” của mình không được thực hiện. Cái đau lòng vì nước trước chiến tranh mang một sắc thái khác với cái đau lòng vì nước sau khi đã đánh đuổi ngoại xâm. Thế mới thây được Nguyễn Trãi đã sống vì nước trong tất cả những suy nghĩ của mình, trong cả niềm vui và nỗi đau.
 
Nguyễn Trãi đã gạt bỏ những ưu phiền riêng tư của đời mình sang một bên. Trong thơ ông, ta cũng thấy nhiều lúc đang mải thơ thẩn về nỗi đau xót của mình thì bỗng nhiên như có cái gì nhói lên trong tâm hồn ông, bắt ông nghĩ đến trách nhiệm của mình, của người trượng phu khiến ông nhớ đến đạo cương thường phò vua, giúp nước.
Chữ học ngày xưa quên hết dạng Chẳng quên có một chữ cương thường.
 
Nhiều người thắc mắc rằng triều đình đã từng gây những vết thương lòng đau đớn cho Nguyễn Trãi thế mà sao ngày đêm lòng Nguyễn Trãi vẫn hướng về với vua với nước. Có lẽ cũng dễ hiểu thôi, bởi đó là lí tưởng sông của Nguyễn Trãi, bởi ông cho rằng sông trên đời mà không phục vụ đất nước thì liệu có còn ý nghĩa gì? Cũng chính vì thế mà khi Nguyễn Trãi về ỏ ẩn dù cái bề ngoài thì “suốt ngày nhàn nhã khép phòng vãn” nhưng rồi, thơ Nguyễn Trãi lại khắc khoải như một tấm lòng thao thức khôn nguôi, như một ánh đèn chong trong đêm tối tìm con đường đến với đất nước bằng cả trái tim.
 
Còn có một lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung.
 
Về ở ẩn xa lánh chôn bụi trần rồi nhưng nỗi lo cho đất nước vẫn ẩn đằng sau cái bụi trúc khóm chuôi hay lẫn vào tiếng mưa trong đêm của những lần thức trắng.
Buồn buồn lay gốc khách Giọt giọt điêu canh tà.
 
Cái tấm lòng ưu ái của Nguyễn Trãi với đất nước còn thể hiện qua ý thức tự hào, tự tôn dân tộc. Có yêu nước đến như thế nào thì Nguyễn Trãi mới có thể hùng hồn về những nền văn hóa, truyền thống và các bậc anh tài. Cũng vì tấm lòng này mà ông đã từng xây dựng một đất nước thái bình cho mai sau, đó cũng chính là ước mơ cao đẹp của ông.
 
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
 
Vì nước thôi thì có lẽ là chưa đủ, bởi hơn ai hết Nguyễn Trãi hiểu rất rõ một đất nước thanh bình mà người dán vẫn kham khổ thì đất nước đó chưa phải là ước mơ cao đẹp mà Nguyễn Trãi hướng tới. Nếu dân không mạnh thì nước cũng không vững được. Bởi lẽ:
 
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
 
Nếu như Nguyễn Trãi là một con người “đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông” thì có lẽ việc đó không ngoài vì dân vì nước. Nhân dân đi vào trong thơ Nguyễn Trãi với nhiều màu sắc của nó, cái mà trước đây chưa ai nối tới thì Nguyễn Trãi lại nói rất nhiều, rất đúng về họ.
 
Điều đầu tiên ta bắt gặp trong thơ ông khi nói về người dân đó là một tấm lòng cảm mến thương ỳêu sâu sắc đi ra từ con người, từ trái tim của tác giả. Nguyễn Trãi sẽ chẳng thể nào ăn ngon ngủ yên khi dân tình còn ở trong cảnh khốn đốn. Và luôn là người lo việc dân việc nước trước thiên hạ.
 
Chính vì thấy được dân từng sống nghèo khổ nên Nguyễn Trãi ngày đêm ước ao có một vị minh quân như vua Nghiêu vua Thuấn để mang lại hạnh phúc và ấm no cho nhân dân. Trong bài thơ Cảnh tình mùa hè, hai câu cuôl đã gửi gắm biết bao nhiêu nỗi niềm, bao nhiêu hoài bão lớn lao. Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương.
 
Nguyễn Trãi không hề sợ một thứ gì ở trong đời mà có lẽ chỉ sợ một điều duy nh.ết đó là đất nước bị chia cắt và dân tình khổ sd. Chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ để làm cho lòng tác giả đau như cắt. Nguyễn Trãi là một con người luôn vượt lên trên những toan tính riêng tư của cuộc đời để lo cho thiên hạ. Vì cả đời ông, có bao giờ ông nghĩ đến riêng ông. Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn Dường ấy ta đã phỉ sở nguyền.
 
Tình yêu nhân dân trong lòng Nguyễn Trãi thật nồng nàn, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi bao trùm toàn bộ tác phẩm. Với tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời, Nguyễn Trãi dã tố cáo tội ác của quân cướp nước. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
 
Tác giả đã đau buồn, thảng thốt kêu lên như thế trước cảnh tang tóc của người dân, ông đã gọi họ là “dân đen con đỏ” với tất cả tình cảm thương xót của mình. Trông thấy dân tình phải cằn quại đau thương trước ngọn giáo kẻ thù, Nguyễn Trãi thấy như tâm can minh đứt ra từng khúc. Nỗi đau của nhân dân cũng chính là nỗi đau của tác giả.
Tấm lòng và quan điểm thân dân không phải đến Nguyễn Trãi mới có nhưng ở những thế hệ trước ông quan điểm này còn phiến diện. Những người cầm quyền có tài đức, có cái nhìn tiến bộ cũng luôn quan tâm, chăm sóc người dân nhưng với tư thế của kẻ bề trên đối với người ở dưới, giống như cha mẹ ra ơn cho con cái, bậc chủ nhân ra ơn cho bề tôi của mình. Bởi vì tập thể người dân dưới mắt họ là những con người nhỏ bé, yếu đuối đáng thương xót, đáng được nuôi nấng vỗ về. Với Nguyễn Trãi, nhân dân bên dưới con mắt của người cầm bút với một khả năng hết sức to lớn của họ trong việc làm nên lịch sử. Họ không phải là những con người nhỏ nhoi yếu đuối, bất lực mà những con người ấy mang đầy đủ sức mạnh để làm nên bao nhiêu điều kĩ vĩ. Trong một bài văn dạy thái tử, Nguyễn Trãi đã viết “mến người có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”.
 
Chính vì hiểu được đúng đắn về bản chất và khả năng của nhân dân nên Nguyễn Trãi đã tuyên bố hùng hồn trong đoạn mở đầu của bài Cáo. Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
 
Nếu không phải là một người gắn bó với người dần thì ắt hẳn ông sẽ không hiểu được điều đó. Và từ dấy lại càng yêu thương những người dân của mình hơn. Nguyễn Trãi vừa yêu thương vừa trân trọng và biết rằng đánh giặc phải dựa vào dân. Bao giờ trong lòng ông cũng luôn luôn thiết tha gắn bó với đời, với dân với nước. Ông muôn dốc hết khả năng cứu giúp nhân dân đau khổ, cứu cho khắp, giúp cho cùng như trong tiết mồng năm ông hằng mong có một nồi nước hoa lan lớn có thể gội rửa hết lầm than cho người dân bốn bể.
 
Nguyện bả lan thang phân tứ hải
Tùng kinh tảo tuyết cựu ô dân.
 
Mục đích cuối cùng của Nguyễn Trãi là nhằm làm thế nào chấm dứt chiến tranh cho nhân dân ta đỡ bớt khổ sở, quân lính ta đỡ bớt đổ máu xương và trong thời hòa bình thì ao ước có một cuộc sông no đủ cho khắp miền thiên hạ.
 
Nói đến dân và nước, Nguyễn Trãi không bao giờ tách nó ra làm đôi mà ông luôn gắn liền dân với nưức. Yêu nước phải đi đôi với thương dân, cứu nước trưóc hết là để cứu dân thoát khỏi ách áp bức. Nói cho cùng thì tấm lòng ưu ái của Nguyễn Trãi đã dành cho dân cho nước đó chính là nhân nghĩa và “triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước thương dân, cái nhân cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt tàn bạo vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân” (Phạm Văn Đồng).
 
Dù cuộc đời của con người vĩ đại ấy đã khép lại từ lâu nhưng những áng thơ văn viết về tình yêu nước thương dân vẫn như ngưng đọng lại trong lòng ta biết bao câu thơ trong trẻo, long lanh như ngọc mà qua bao nhiêu lớp bụi thời gian vẫn không thể nào mờ phai đi được. Nguyễn Trãi quả là một con người có trái tim “cuồn cuộn như nước triều Đông”.
 
QUAN NIỆM SỐNG VÀ NHÂN CẨCH CAO ĐẸP CỦA NGUYỄN TRÃI QUA THƠ VĂN ÔNG
 
Mỗi một con người có một nhân cách sống và một cách nhìn đời, nhìn người rất khác. Và dĩ nhiên họ cũng chọn cho mình một cách sống rất riêng. Nguyễn Trãi, một tâm hồn thơ lớn của văn học Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tất cả đều được thể hiện qua thơ văn của ông. Đó là một quan niệm sông mang màu sắc chân lí và một trái tim, một nhân cách đẹp đẽ.
 
Nguyễn Trãi là một người anh hùng, một nhà thơ lớn đã dể lại cho người đời những tình cảm mến phục, kính cẩn sâu sắc. Từ thế hệ này đến thế hệ khác mỗi khi nhắc đến đại thi hào Nguyễn Trãi, người ta không chỉ nhớ tới đó là một vị anh hùng cứu dân cứu nước, một hồn thơ trào lộng mà còn nhớ đến một quan điểm sống và một nhân cách cao đẹp của con người giàu tình nghĩa ấy.
 
Quan niệm sông, đó là những quan điểm, mục đích mà con người ta hướng tới. Với Nguyễn Trãi, cái quan niệm đó rộng lớn và đầy đủ các khía cạnh.
 
Là một con người trước sau chỉ sống vì một từ nhân nghĩa, vì đất nước và nhân dân yêu thương của mình. Thơ văn ông đã thể hiện một tấm lòng son sắt, một nhiệt tình nồng thắm đối với đất nước nhân dân. Một lí tưởng cống hiến. Sinh ra chí làm trai ở trên đời, Nguyễn Trãi cho rằng đã sông thì phải sống một cuộc đời có nghĩa lí, cái nghĩa lí ấy đã toát lên trong thơ văn của ức Trai thật đẹp đẽ vô cùng. Một lí tưởng sống chỉ nghĩ đến cái chung chứ không bao giờ lo cho bản thân, luôn biết nhận thiệt thòi về cho chính mình, ông đã biết hi sinh cái lợi ích cá nhân của mình để chỉ vì nghĩa lớn.
 
Bụi một tấc lòng ân ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông.
 
Quan niệm sống, cái chí hướng mà Nguyễn Trãi đeo đuổi cũng là cái mà tác giả đã phải trăn trở, ăn không ngon, ngủ không yên, đứng ngồi không vững. Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi bao giờ cũng thấp thoáng ý nghĩa “tiên ưu”. Lúc nào cũng thế, Nguyễn Trãi chỉ tâm niệm và hành động một điều: là lo trước khi nhân dân chưa lo và chỉ vui sau khi thây nhân dân đều vui. Trong cuộc sông chưa lúc nào Nguyễn Trãi lại không lấy nhân nghĩa làm gốc. Đấy chính là một quan niệm, một tư tưởng và lối sông mà muôn đời nav từ thế hệ này đến thế hệ khác vẫn cứ thế noi theo. Trong bài Cáo bình Ngô, nó được thể hiện rất rõ.
 
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
 
Chỉ có bây nhiêu đó thôi đã cũng đã hiểu được cái suy nghĩ lớn lao trong con người vĩ đại ấy. Như thế trước hết quan niệm sông của Nguyễn Trãi đó là sông trên đời phải làm được việc lớn, và muôn như thế thì phải gạt được mọi cái riêng tư ra khỏi tầm suy nghĩ.
 
Trong thời ông sông, triều đình rối loạn bởi sự tranh giành quyền chức nên quan lại ra sức gièm pha lẫn nhau. Dù Nguyễn Trãi có là người thẳng thắn cương trực đến mấy cũng không thể nào chông lại được cả một lũ nhiễu nhương. Đã có nhiều lúc Nguyễn Trãi thấy ở lại triều đình là một lỗi lầm, là hao tài tuổi thọ. Nhưng khi được mời làm quan một lần nữa, Nguyễn Trãi đã hăng hái nhận lời dẫu biết rằng nó sẽ chẳng đem lại lợi lộc gì cho bản thân cả. Thê mới biết quan niệm “tiên ưu” trong lối sông của ông thật là khảng khái.
 
Những vì chúa thánh ân đời trị
Há dễ thân nhàn, tiếc tuổi tàn.
 
Quan niệm sông của Nguyễn Trãi cũng là của một người trượng phu, đầy tình nghĩa. Với ông, mục đích của cuộc sông là phải biết làm và làm được những điều mình đã đặt ra. Nguyễn Trãi đề cao tính tự lập, sự siêng năng lao động để tự nuôi lấy bản thân mình.
 
Tay ai thì lại làm nuôi miệng
Làm biếng ngồi ăn lở núi non.
 
hoặc:
 
Nên thợ nên thầy vì có học
No ăn, no mặc bởi hay làm.
 
Một quan niệm rất tiến bộ, trước đây tục ngữ Việt Nam cũng từng có câu “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đêm phần đến cho”. Đó như là một chân lí sống ở đời vậy. Không những nó mang ý nghĩa cho thời đại của Nguyễn Trãi mà bấy giờ dù thời gian đã đi qua rất nhiều, cái châm ngôn về cuộc sông ấy vẫn còn tươi trẻ, và có lẽ mai sau nó hãy còn có ý nghĩa. Sông mà không lao động, không tự tìm tòi và đổ mồ hôi thì đấy không phải là một cuộc sống có ý nghĩa.
 
Nguyễn Trãi cho rằng sông là phải biết trọng nhân nghĩa, lúc nghèo hay giàu có, quyền cao chức trọng thì cũng phải giữ vững lập trường trước sau như một. Và điều đó thể hiện thật nổi bật ở hai câu thơ sau: 
 
Kết bạn mưa quên người cổ cuộc
Yên nhà nợ phụ vợ tao khang.
 
Đấy như là một lời khuyên nhủ, nhắn gửi đối với tất cả mọi người. Qua đó thể hiện cái quan điểm sống của con người ức Trai. Nhưng để dạy dược người có hiệu quả trước hết ông cho rằng bản thân người ấy phải là một tâm gương sáng, ở khía cạnh khác thơ văn Nguyễn Trãi mở ra cho ta thấy một quan niệm sống rất tiến bộ, tích cực. Ay là con người sông thì luôn phải rèn luyện mình, không bằng lòng với chính mình. Rèn luyện để có đủ gan góc, chí khí vượt qua những khó khăn.
 
Khó khăn thì mặc có màn bao
Càng khí bao nhiêu chí mời hào.
 
Trong khó khăn gian khổ con người bỗng lớn lên rất nhiều, Nguyễn Trãi đã từng nói như thế trong thơ văn của mình, bdi khi ta tiếp xúc với thơ ông, ta cũng lớn ra, cứng cỏi lên và rạo rực ý chí.
 
Nguyễn Trãi luôn tâm niệm một điều đó là nếu không trải qua những khó khăn gian khổ, thử thách thì không thể nào có được những trang anh hùng quân tử, mà những con người ấy phải là những con người bưóc ra từ chỗ đau thương vất vả.
 
Khó bền mới phải người quân tử
Mạnh gắng thù nên kể trượng phu.
 
Bên cạnh những điều đó, thơ văn Nguyễn Trãi thể hiện một cuộc sống hài hòa giữa con người với thiên nhiên, đó cũng là câu đôi giữa phục vụ và cảm thú. Nguyễn Trãi “chai” với thiên nhiên. Chơi ở đây có nghĩa là vui sống, với quan niệm yêu đời, yêu người, lạc quan, tin tưởng, chứ hoàn toàn không có nghĩa là hành lạc bê tha. Cái chơi trong thơ vãn Nguyễn Trãi là cái chơi lành mạnh, chan hòa, trên tinh thần đạo đức nhân nghĩa.
 
Trong cái cảnh bần hàn, nghèo khó thế mà cái yêu đời vẫn sung sức, nó không hề méo mó di.
 
Cốt lạnh hồn thanh chăng chứng hóa
Âu còn nhớ chúa cùng cha.
 
Đặc biệt tinh thần, quan niệm sống lạc quan yêu đời còn thể hiện rõ trong thơ Nguyễn Trãi nói về cảnh vật thiên nhiên về các mùa, các tiết. Nhà thơ hay nói về ý than tiếc thời gian và hay nhắc nhở lại các câu Lí Bạch đã nói “Người xưa cầm đuốc chơi đêm cũng ỉà có lý do” (Lí Bạch). Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm Những ỉệ xuân qua tuổi tác thêm.
 
Câu thơ như một triết lí về thời gian. Nhưng Nguyễn Trãi không sông gấp, sống mau, sông “vội vàng” mà vẫn sống hết kích thước của một cuộc đời có ý nghĩa. Thế mới là điều đáng quý, đáng nghiêng mình tôn kính. Tuy thế nhà thơ có ý muốn khuyên những ai đang tuổi thanh xuân thì hãy vui chơi cho hết chín mươi đêm xuân, vui chơi cho đến cái phút cuối cùng của đêm thứ chín mươi, trước khi thời tiết chuyển sang ngày hạ đầu tiên của năm!
 
Cầm đuốc chơi đêm, này khách nói
Tiếng chuông chưa gióng, ắt còn xuân.
 
Ông cho rằng phải biết tận dụng những gì có thể thì cứ tận dụng, vì thời gian không bao giờ trở lại hai lần. Một quan niệm mà có lẽ ai ai cũng tìm thấy được bóng dáng của mình trong đó. Quan niệm mang ý nghĩa nhân sinh. Bên cạnh quan niệm sống thì thơ văn của Nguyễn Trãi thể hiện một nhân cách cao cả, đẹp đẽ sáng ngời qua từng trang viết của ông, ta thấy từ con người vĩ đại ấy toát lên một vẻ thánh thiện đến vô cùng.
 
“Nếu chúng ta chịu khó bỏ ra đôi chút, phải. Chỉ một đôi chút thì giờ thôi cho tâm hồn lắng xuống để tập trung thông cảm sâu sắc với người xưa, thì tôi nghĩ thơ Nguyễn Trãi có thể làm cho lòng ta rung động và xao xuyến. Cải đau xót của nhà thơ sẽ nâng cao tình cảm chúng ta. Cái buồn trong thơ ức Trai vẫn thêm ý nghĩa cho cái vui của chúng ta ngày nay và con cháu chúng ta mai sau, vì nó nhắc nhở ta tính chất trung cổ ghè tởm của xã hội phong kiến, tăng cường mối căm thù của chúng ta đối với mọi xã hội người áp bức người (Nguyễn Trãi). Thơ ông có mảng đượm hương vị của nỗi buồn nhưng đó là một cái buồn đẹp, là nỗi đau “nhân tình thế thái”, nỗi uất hận khi thây quanh triều dinh chỉ là những kẻ nịnh bợ, ton hót và hám danh lợi. Sông trong một chế độ xã hội phong kiến tàn khốc, ông có nhiều tâm sự u uất đau thương, nhưng “tâm hồn ông bao giờ cũng trong sạch như ngọn lửa thủy ngân cháy trong lò luyện thuốc trường sinh bất tử” (Nguyễn Trãi). Trước sau Nguyễn Trãi vẫn hiên ngang bâ't khuất như một cây tùng sừng sững trong bão tuyết mưa sa trước “miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn”.
 
Thu đến cây nào chẳng lạ lùng
Một mình lạ thuở ba đông
Lâm tuyền ai rặng già làm khách
Tài đổng hương cao ắt cả dùng.
(Tùng)
Hình ảnh cây tùng hay cũng chính là hình ảnh của tác giả. Bài thơ đã hóa thân mình vào đó, thể hiện một thế đứng bất khuất, hiên ngang tự tại, không chịu khom lưng uốn gối làm theo “thói đời”, không dùng lời lẽ ngon ngọt để kiếm công danh chức tước. Nguyễn Trãi chưa từng chịu khuất phục trước bất kì một thế lực hung bạo nào cũng như trước sự quyến rũ thấp hèn nào cả. Do dó mà ông đẹp hơn rất nhiều, cái nhân cách vốn đã trong sáng lại càng thanh khiết hơn. Có người đã nói rằng “Nguyễn Trãi thanh khiết bậc nhất trong những người thanh khiết” và quả là đúng như vậy thật. Bản chất thanh cao, những khổ đau cuộc dời càng làm cho ông thanh cao hơn. Bản chất cương nghị, những hoạn nạn mắc phải giúp ông càng thêm cương nghị. Và ông đã tự hào về điều đó. Đạo ta cậy bởi chăn non khỏe.
 
Trước những cám dỗ của cuộc đời, Nguyễn Trãi vẫn một mực đi theo cái triết lí nhân nghĩa nên bao giờ ông cũng giữ được cái phẩm chất cao quý của một bậc thánh hiền.
Cơm kè bất nhân ăn ấy chớ Áo người vô nghĩa mặc chăng thà.
 
ức Trai có cái đẹp thường trực ở trong tâm hồn, có cái đẹp là bản chất của tâm hồn đó là vẻ đẹp bên trong vẻ đẹp bền bỉ mà dù những bon chen của cuộc đời, dù thời gian vẫn không sao tàn phá nổi.
 
Nhất phiếm đan tâm chân hống hỏa
Thập niên thanh chức ngọc hồ bàng.
 
Nhân cách của Nguyễn Trãi là một tấm lòng son, tấm lòng tinh khiết nung nấu như “ngọn lửa thủy ngân” rực sáng, đã mười năm làm quan nhưng vẫn giữ được cái thanh đạm, “sạch như giá tuyết đựng trong bình ngọc”. Con người của ông, tấm lòng của ông bao giờ cũng ngời ngời như mặt trời tỏa ánh sáng vào những buổi sớm mai.
Quả thật, như người ta thường nói: thơ văn Nguyễn Trãi thể hiện một quan niệm sống tích cực tiến bộ, một nhân cách cao đẹp tuyệt vời.
Nguồn: