Phân tích truyện ngắn Đời Thừa của Nam Cao
Đời thừa là một trong những truyện ngắn của Nam Cao viết về đề tài người trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng tháng Tám. Tác giả đặc biệt đi sâu vào bi kịch tinh thần của họ, qua đó đặt ra vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn vượt ra khỏi phạm vi đề tài. Truyện ngắn này được đăng trên báo “Tiểu thuyết thứ 7 - số ra ngày 4.12.1943 đã gây được tiếng vang lớn trên văn dàn lúc bây giờ.
Nhà văn Hộ sông quằn quại, đớn đau trước sự nghiệp dở dang, khát khao mang lại cho đời ánh sáng nghệ thuật bằng chính khôi óc và trái tim đầy nhiệt huyết nhưng rốt cuộc lại sông ẩn dật trong bóng tối vô danh vì nỗi lo “cơm áo gạo tiền”. Một đời sông thừa thãi, ê chề, chán ngấy. Đã bao lần Hộ muốn bứt ra khỏi cuộc sống gia đình hiện tại để dành trọn vẹn cuộc đời còn lại của mình cho nghệ thuật. Nhưng cũng bây nhiêu lần anh thất bại và ngày càng thảm hại như một tấn bi kịch nội tâm không thể thoát ra được, cũng như gia dinh, anh không thể rũ bỏ, không thể quay lưng với vợ hiền con thơ.
Tình yêu nghệ thuật của anh là một tình yêu chân chính. Anh quan niệm “Nghệ thuật là tất cả”. Và không có gì có thể vươn cao hơn trong anh bằng tình yêu nghệ thuật. Vì nghệ thuật mà anh có thể hi sinh cuộc sống tầm thường đang diễn ra, bất chấp tất cả cho nghệ thuật: “Đói rét không có nghĩa lí gì đối với gã trẻ tuổi say mê lí tưởng”. Trong anh luôn đau đáu về một tác phẩm có giá trị để đời không giới hạn về mặt không gian và thời gian. “Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ...”. Hộ ước mơ trở thành một nhà văn nổi tiếng là xác đáng chứ không phải là tùy tiện. Đó là sự tự ý thức, tự phấn đấu vươn lên của mình, £ự khẳng định giá trị của một nhà văn sống có ý nghĩa. Với tình yêu văn chương vô tư, Hộ mong ước được theo đuổi hoài bão, được coi văn chương là lẽ sông. Nhà văn không cho phép con người làm nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật văn chương được phép viết ẩu, viết vội một cách cẩu thả “sự cẩu thả trong văn chương thì thật đê tiện”. Đã là một nhà văn thì phải có lương tâm của người cầm bút, phải biết nhận thức đúng đắn, đích thực về nghệ thuật “Nghệ thuật đồng nghĩa với sự sáng tạo” không phải “rập khuôn, bắt chước một kiểu mẫu người ta mang cho” và phải có tính nhân văn, phải lớn lao, có giá trị tầm vóc nhân loại, phải làm cho người gần người hơn. Thực chất đây cũng là quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh của Nam Cao và những nhà văn thuộc trường phái tả chân lúc bấy giờ.
Hộ luôn “băn khoăn nghĩ đến tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm ra một thời”. Những điều mà Hộ suy nghĩ, những khao khát, hoài bão mà Hộ từng ôm ấp, đeo đuổi, phấn đấu rất chính đáng và đáng được trân trọng. Hộ không phải là kẻ ham sự nổi danh một cách tầm thường. Hộ muốn khẳng định tài năng của mình bằng nghệ thuật chân chính do chính khôi óc của mình sáng tạo nên. Đối v.ới Hộ, được đọc và được viết là một hạnh phúc lớn. Hộ dam mê văn chương, Hộ muốn tìm đọc nó để “thưởng thức cái đẹp chăn chính, cái đẹp cao thượng của vãn chương” và viết là để “sáng tạo, thể hiện khát vọng đẹp đẽ của mình đối với nghệ thuật”.

Hộ là một nhà văn có thiên chức, là một cây bút có ý thức trách nhiệm cao. Không lúc nào Hộ không băn khoăn suy nghĩ, Hộ tự đặt câu hỏi cho chính mình là làm thê nào để có được một tác phẩm có giá trị. Có lần anh dã tâm sự với bạn “cả đời tôi chỉ viết một quyển sách như quyển ấy sẽ ăn giải Nôben và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu”. Thế nhưng giấc mộng của Hộ đã vỡ tan trước đen bạc cuộc đời. Ước mơ đẹp đẽ ấy vĩnh viễn không thực hiện bởi xã hội, bdi gánh nặng gia đình trĩu xuống trên đôi vai Hộ. Khát khao làm được một điều gì đó có ích cho đời, có giá trị cho cuộc sống mà chẳng làm được. Gánh nặng cơm áo vây lấy Hộ, vày anh ra để rồi “chỉ lo cơm áo mà đủ mệt”. Việc cơm áo tưởng như là nhỏ nhặt tầm thường đối với Hộ thì giờ đây đã trở thành kẻ thù phá nát cuộc đời anh. Cuộc sông vật chất của vợ con và bản thân mình đang nảy sinh ra những đòi hỏi bức bách, cấp thiết. Hộ không biết chọn lây con đường nào. Hộ đang day dứt, giằng xé “Hắn để mặc vợ con khổ ư? Không được”. Vậy là Hộ không chấp nhận cách sòng tàn nhẫn để viết vì Hộ hiểu một nhà văn chân chính nếu không có chữ “tâm” thì chẳng nên cầm bút để làm gì. Trong Trăng sáng, nhà văn Điền đã từng nói “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Thế nên Hộ lại phải đón lấy tình thương, không thể để cho vợ con phải khổ, mà để đưa vợ con tránh xa cái đói rách thì buộc lòng Hộ phải viết vì xưa nay day dứt đau đớn: “Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền”. Và rồi Hộ lao vào viết như một kẻ thiêu thân. Nhưng Hộ vìêt những gì “toàn những cái vô vị nhạt nhẽo, Hộ viết ẩu, viết nhanh đề cho in những cuốn văn viết vội vàng, phải viết những bài báo để người đọc quên ngay sau khi đọc”. Song càng viết những cuốn văn vô vị nhạt phèo thì lương tâm Hộ lại bị cắn rứt. Hộ đau đớn nghĩ mình như một kẻ bất lương, đê tiện. Hộ không dám xem lại những cuốn sách mình đã viết chỉ vì mục đích kiếm tiền.
Những bận rộn tẹp nhẹp vô nghĩa lí của đời thường đã níu Hộ xuống, bóp nghẹt những mầm mông và ước mơ đẹp đẽ của Hộ. Giấc mộng văn chương tan vỡ trước hiện thực cuộc đời. Hộ từ một nhà văn chân chính, có khát vọng, có lí tưởng sông đã trở thành một cây bút bất nhân. Tên tuổi của Hộ mờ dần, nhạt dần đi sau những tên tuổi khác. Ước mơ đẹp đẽ là thế nhưng khả năng thực hiện lại không có bởi cuộc sông cơm áo túng quẫn. Hộ đau đớn trước hoài bão được sông công hiến cho nghệ thuật, phụng sự văn chương nhưng cuối cùng lại bị đánh mất tư cách của người viết văn. Mộng ước vỡ tan, cuộc đời của Hộ rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc. Hộ đã sông một “đời thừa'" bằng tấn bi kịch đớn đau về tinh thần khi ý thức được nhân cách của mình đang tuột dốc.
“Miếng ăn", “cái đói” khiến cho nhà văn Hộ không thể thực hiện hoài bão lớn lao của mình. Mở đầu là sự thay đổi về nhân cách “Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên lên vì con khóc, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách [...]. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng...”. Từ chỗ một người hết sức thương vợ thương con, Hộ bắt đầu cảm thây khó chịu đối với những trói buộc của cuộc đời. Bực hội về gánh nặng gia đình, anh tìm đến rượu để giải sầu. Nhưng sầu lại sầu thêm, những cơm áo hàng ngày đã tác động một cách bi thương vào thế giới nội tâm của Hộ. Anh đổ lỗi cho con đường công danh của anh tàn lụi là do vợ con gây ra.
Bản chất vôn là một nhà văn nhân hậu, Hộ đã cúi xuông nỗi đau của Từ khi Từ lâm vào cảnh tuyệt vọng “đớn đau không bờ bến: Từ bị tình nhân bỏ với một đứa con vừa mới đẻ’. Đó là hoàn cảnh khôn nạn nhất mà người phụ nữ gặp phải trong đời và cũng là hoàn cảnh bị người đời nguyền rủa (trong xã hội xưa). Hộ lấy Từ không phải vì lòng thương hại mà chính vì anh đã vượt lên trên điều tiếng của cuộc đời mà gắn đời mình với cuộc đời người đàn bà bất hạnh yếu đuôi kia. Anh đã trải cả đời trai trẻ để hứng lấy mọi kham khổ, mọi âu lo và cái lớn lao nhất mà anh đã làm cho người đàn bà yếu ớt kia là “cứu lấy danh dự”. Nhưng cũng vì thế mà cuộc sông vật chất càng ngày càng không đáp ứng nổi nhu cầu ăn ở. Những tủn mủn vật chất khiến anh đau đầu và gián tiếp bóp chết mộng đẹp thời trai trẻ của anh. Anh tìm đến với men rượu. Khác với lối say của Chí Phèo - một kẻ cùng đinh mạt hạng không có nửa chữ chỉ triền miên không có thời gian cho nỗi đau. Còn Hộ chỉ mua vui, giải sầu những khi quá sầu để rồi sau giấc ngủ vùi lương tâm lại cắn rứt nhức nhối, quằn quại. Khổ thay, Hộ không phải say để ngủ yên, anh mượn rượu để lộ ra những khốn khổ trong lòng rằng anh đã chán ngấy cảnh mè nheo của lũ con và sự thông cảm nông cạn của mụ vợ. Khó chịu với trói buộc của cuộc đời, anh muốn rũ bỏ cái gông đang quàng lên cổ kia để hiến dâng trọn vẹn cho nghệ thuật cao siêu và tuyệt mỹ. Anh chửi rủa, thóa mạ, xô đuổi vợ con. Từ chỗ một con người nhân hậu bản tính đã có phần dã man. Tính chất phàm tục bắt đầu nổi dậy khi con người cảm thấy như tuyệt vọng, như mất hết những thứ đáng lẽ không phải mất. Không ai hiểu cho sự hi sinh vì nhu cầu kiếm sống hay là sự đấu tranh một bên là say mê nghệ thuật, một bên là trách nhiệm làm chồng làm cha của anh. Mâu thuẫn gay gắt về phương diện nhân cách giữa cái tốt và cái xấu giằng xé trong anh. Hộ là người nhân hậu, giàu lòng vị tha đang đứng trước bờ vực thẳm của sự tha hóa nhân cách. Trong con mắt Từ, hình ảnh Hộ ngồi đọc sách trong dáng vẻ “khắc khổ đến dữ tợn”. Từ không dám yêu Hộ bằng tình yêu, sự cảm thông của mình mà thứ tình yêu đó biến dạng thành tình yêu của “một con chó đối với người nuôi’ với sự chấp nhận, dâng hiến, phụng sự và biết ơn. Từ là người phụ nữ nhẫn nhục trước những cư xử vũ phu của chồng cũng là nỗi cảm thông mà Từ dành cho chồng nhưng không biết mình phải làm gì hơn trước nổi muộn phiền, đớn đau của chồng, Từ còn không dám hỏi han cả những điều thiết yếu như muôn tránh đi sự lay động vì sợ mình là kẻ ngoại đạo sân sổ vào lãnh địa thiêng liêng. Cái chật chội, tù túng trong lòng Hộ dầy ắp khiến nó tràn ra, dội xuống đầu người vợ trẻ tội nghiệp. Cuộc sông chật vật khiến anh chán ngấy tất cả, chán ghét chính bản thân mình. Không thực hiện được khát vọng văn chương, anh cảm thấy mình sống thừa thãi. Chữ “tâm” trong con người Hộ bắt đầu bị lung lay bằng những hành động khác với bản chất vốh có của anh, những bế tắc, quẫn bách về kế sinh nhai dồn nén xô đẩy con người vào ngõ cụt của cuộc đời, nó làm méo mó, dị dạng cả tâm hồn và thể xác của con người hiền lành, vô tội. Trong những sáng tác của Nam Cao, anh đã nhặt nhạnh những ví dụ điển hình, những sô' phận của con người mà soi ra toàn bộ xã hội, cuộc đời. Truyện của Nam Cao thường có sự lặp đi lặp lại của hiện tượng miếng cơm, cái đói, cái khổ đau thương và nước mắt. Tất cả đó là những nốt nhạc buồn thảm đeo đuổi suốt cả chặng đường văn học của Nam cao. Tấm lòng nhân hậu của tác giả dã lục tìm tận ngõ ngách của cái cùng khổ, tận từng vách ngăn của nỗi đau để phơi lộ ra bản chất đích thực chứa đựng trong đó. Ở đấy, ta bắt gặp một Hộ, một Điền trong Trăng sảng, một Thứ trong Sống mòn... Những trái tim rỉ máu đã gặp nhau trong nỗi đau chung
của bối cảnh lịch sử, sự giằng co giữa cuộc sống gia đình và mộng văn chương, sự bế tắc và một cuộc đời nhạc thếch, một “đời thừa”.
Nam Cao không thể lựa chọn cho Hộ một con đường vì sự nghiệp công danh mà bỏ mặc gia đình - vì nền tảng văn hóa gia đình Việt Nam không cho phép anh. Hộ đã giang tay đón lấy tình thương rồi lại dẫm đạp lên tình thương và lẽ sông của chính mình. Thế nhưng rồi trong cơn say tỉnh, Hộ đã mon men nghĩ đến câu nói của một nhà triết học “phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”. Để có thời gian rảnh rang theo đuổi sự nghiệp thì chỉ có một cách duy nhất là thoát li vợ con, rũ bỏ trách nhiệm gia đình. Hộ gắt gỏng với mọi người, với chính mình. Khi những đứa con nhiều sài nhiều đẹn ra đời, mếu máo khóc suốt ngày thì Hộ lại phải điên đầu lên để kiếm tiền. Hộ xem như cuộc đời mình đã hỏng. Hộ rên lên giữa bao ngổn ngang của cuộc sống, của sự bế tắc tuyệt vọng “thôi thế là hết, ta đã hỏng đứt rồi”. Hộ tìm quên trong men saỵ và mỗi lần về nhà lại gây sự với mẹ con Từ. Đã có lúc Hộ rít lên trong đau đớn và dữ tợn: “Ngày mai... mình có biết không? Chỉ ngày mai thôi! Là tôi đuổi cả mẹ con mình ra khỏi nhà (...). Hắn rít lèn như vậy rồi hắn lại mím chặt môi, đôi mắt ngầu ngầu nhìn tận vào mặt Từ”. Hộ đã trở thành một người chồng vũ phu. Trong cơn say, Hộ đã đánh mất tư cách làm người của mình. Hộ đã phạm vào nguyên tắc sông cao nhất là tình thương. Mặc dầu vậy, Hộ luôn tâm niệm một điều “kẻ mạnh không phải là kẻ dẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỉ, kẻ mạnh phải là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình”. Cũng chính vì lẽ đó mà sau mỗi lần đánh đập, chửi mắng Từ, Hộ lại hối hận vô cùng. Hộ day dứt, đau khổ vì những câu nói, những hành động tàn nhẫn vô lương tâm. Một buổi sáng tỉnh dậy trong men say “Hộ cảm thấy lòng mình nao nao, trong lòng Hộ trào dâng một niềm thương Từ”. Nhìn dáng hình gầy yếu tiều tụy của Từ, Hộ hiểu rằng Từ đáng được che chở biết bao nhiêu, thế mà Hộ đã làm gì để Từ đỡ khổ? Nghĩ đến sự đối xử tàn nhẫn, thô bạo của mình, nước mắt Hộ cứ tràn ra “nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh và hắn khóc... Ôi chao! Hắn khóc. Hắn khóc nức nở”. Đó là những giọt nước mắt nặng trĩu đau thương cứu vớt nhân cách sa ngã của một kẻ làm người. Hộ ý thức rất rõ tội lỗi của mình. Hộ nghẹn ngào nói qua tiếng nấc “Anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn”. Tiếng nấc ấy được cất lên ở cuối tác phẩm, chua xót, day dứt. Vậy là Hộ lại rơi vào bi kịch thứ hai - bi kịch của con người lấy tình thương làm nguyên tắc sống cao nhất lại dẫm đạp lên tình thương đó.
Mộng văn chwong và cuộc sống cơm áo, tình yêu vợ con luôn luôn là sự giằng xé trong cuộc đời Hộ. Hộ không thể từ một trong hai nên cuộc đời của Hộ trở nên bế tác, quanh quẩn, Và rốt cuộc Hộ đã chẳng được gì trong hai khát vọng sông. Với nghệ thuật, Hộ trở thành kẻ bất lương đê tiện, với gia đình vợ con, Hộ trở thành người chồng vũ phu, người cha vô trách nhiệm. Hộ đã sống có cuộc sông thừa thãi và ý nghĩa của nhan đề đã toát lên điều đó.
Truyện ngắn Đời thừa có ý nghĩa tố cáo xã hội một cách sâu sắc. Nó là lời kết án đanh thép đôi với chế độ đương thời đã bóp nghẹt, chôn vùi những ước mơ tốt đẹp của con người, đạp họ xuống vũng bùn của tội lỗi, tước đoạt giá trị ý nghĩa của sự sông. Người trí thức nghèo đã vùng lên đấu tranh nhưng càng vùng vẫy lại càng bê tắc hơn và rồi cuối cùng đều rơi vào tấn bi kịch tinh thần đau đớn. Bi kịch của Hộ cũng là bi kịch của lớp người trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ.
Nếu như tác phẩm Chí Phèo được khép lại ở cảnh Thị Nô đặt tay lên bụng mình và thoáng thấy hình ảnh cái lò gạch vắng kẻ lại qua thì Đời thừa cũng không khá hơn là mấy. Có ai dám chắc rằng sẽ không có một Chí Phèo con ĩa đời, cũng chẳng ai dám quả quyết sau tiếng nấc tự hứa với lương tâm cùa Hộ là Hộ đã có thể bình yên sông thanh thản với vợ con. Sự bế tắc của Ly là sự bế tắc chung của những người dân không được làm chủ cuộc đời mình ở thời kì trước Cách mạng tháng Tám. Và tác phẩm của ông, đó đây sau những hình tượng, những nhân vật đã kín đáo gửi gắm một khát vọng về sự thay đổi cuộc đời cho những con người bất hạnh. Tiếng nói ấy được cất lên vang động từ một trái tim giàu lòng nhân ái, có lương tâm nghề nghiệp bởi một lẽ giản dị, con người ấy đã hiểu.
Tiếng hát đi từ trái tim lên miệng Trái tim đen nên tiếng hát không hay.
Nguồn:
- Phân tích khổ 2 bài thơ Tràng Giang của Huy Cận (14/12) Nguồn:
- Soạn bài Thao tác lập luận bác bỏ (14/12) Nguồn:
- Soạn bài Vội Vàng của Xuân Diệu nâng cao (14/12) Nguồn:
- Phân tích bài thơ Tôi yêu em lớp 11 (20/10) Nguồn:
- Bức tranh quê trong bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ (20/10) Nguồn:


