Phân tích đoạn trích Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn
Đặng Trần Côn người làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, nay thuộc quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sống vào khoảng thếki XVIII. Đó là giai đoạn chếđộ phong kiến Việt Nam khùng hoảng trầm trọng và dàn đến suy thoái. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long, triều đình cất quân đánh dẹp, nhiều trai tráng bị bắt ra chiến trận để lại nỗi đau mất mát cho những người thân, đặc biệt là những người vợ lính. Cảm động trước những nỗi đau ấy, Đặng Trần Côn viết Chinh phụ ngâm.Tác phẩm tốcáo cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa, thể hiện niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụnói lên nỗi cô đon, buồn khô của nhũng người chinh phụ trong thời gian dài người chồng ra chiên trận không có tin tức và không rõ ngày trò về:
Dạo hiên vắng thẩm gieo từng bước...
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chừng
Nôi cô đơn lẻ bóng của người chinh phụ được thể hiện qua những hành động lặp đi lặp lại như vô thức:
Dạo hiên vắng thẩm gieo từng bước Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen Ngoài rèm thước chẳng mách tin Trong rèm, dường đã có đèn biêỉ chăng?
Người chinh phụ thẫn thờ ngoài hiên như đếm từng bước chân mình trong nỗi vắng lặng cô đơn. Mồi bước chân như gieo vào không gian tĩnh mịch nỗi niềm miên man sầu nhớ. Hết đi đi, lại lại nàng lại bổn chồn lo lắng kéo rèm lên ngóng trông rồi lại buông xuống trong nỗi thất vọng não nề. Bao nhiêu lần buông, cuốn rèm là bấy nhiêu lần hy vọng rồi thât vọng.
ơ ngoài hiên hay ò trong phòng nàng vẫn lẻ loi, cô đơn hết sức. Mong con chim thước cất lên tiếng kêu nhưng đến cả tiêng chim của sự mong mỏi cũng im vắng. Nỗi thất vọng càng lúc càng tăng khi bên ngoài thước chẳng mách tin,chẳng hề có một chút tin tức. Chỉ có mình nàng đôi bóng với ngọn đèn khuya. Đêm khuya một mình một bóng dưới ánh đèn, người chinh phụ khao khát sự đồng cảm, sẻ chia, người hi vọng đèn thâu hiểu và soi tỏ lòng mình, nhưng đèn vô tri, vô cảm, đèn không thê an ủi, sẻ chia cùng người nỗi đau khổ, lẻ loi:
Đèn có biết dường bằng chẳng biết Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi Buôn rầu nói chẳng nênlời Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Tcám câu thơ tiếp theo là nỗi sầu nhớ triền miên không dứt:
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bon bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Tiếng gà eo óc gáy vừa diễn tả sự trôi chảy của thời gian, vừa diên tả sự giày vò của lòng người trong không gian vắng lặng của đêm khuya. Bóng cây hòe lặng lẽ, im lìm rủ xuống trong đêm lạnh gợi cảm giác hoang vắng, cô đon. Thòi gian tâm lý được nhân lên gấp bội. Nghệ thuật so sánh và sử dụng từ láy mang giá trị biểu cảm cao. Mỗi giò mỗi khắc trong tâm trạng chò đợi dài như cả năm, môi sầu càng lan tỏa miên man bao la nhu biến cả. Bốn dòng tho là bốn tù láy chia đều. Một từ gợi âm thanh, gọi lên cái vắng vẻ tĩnh mịch eo óc,một từ gọi hình anh, gọi lên cảm giác hoang vắng phất phơ,một từ gọi thòi gian dài đằng đẵng,một từ gọi không gian vô tận dằng dặc.Sự chò đợi trong mỏi mòn càng làm cho nôi sầu miên man không dứt.
Đê giải tòa nỗi buồn, người chinh phụ gắng gượng đốt hương như để tìm nguồn an ủi tâm linh, nhưng càng làm cho tâm hồn miên man sầu nhớ. Nàng gượng soi gương điểm tô nhan sắc vốn đã nhiều phôi pha theo thòi gian chò đợi. Thếnhưng, nhìn gương mặt đầm đìa nước mắt của mình trong gương lòng lại càng thêm xót xa. Mượn tiếng đàn để gỏi gắm tâm sự lại e dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng,sợ phải đón những điềm xui rủi không mong muôn:
Hương gượng đôt hổn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắc cấm gượng gãy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phún loan ngại chùng.
Chính vì lẽ ấy mà càng gắng gượng nỗi sầu chăng những không giải tỏa được mà càng lúc càng sầu thêm.
Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật thông qua hành động, qua diên biến nội tâm, ngôn từ sử dụng một cách chọn lọc, nhiều biện pháp tu từ gicàu sắc thái biểu cảm, đoạn trích đã diên tả sâu sắc những sắc thái cung bậc khác nhau của nỗi cô đon, buồn khổ ô nguôi chinh phụ trong tình cảnh chia lìa. Qua đó, ta thấy tiếng nói tốcáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đề cao tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Đó chính là ý nghĩa nhân văn cao đẹp của tác phẩm.
- Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi (21/07) Nguồn:
- Phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du (21/07) Nguồn:
- Cảm nhận bài ca dao Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai (16/07) Nguồn:
- Phân tích đoạn 1 trong bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi (16/07) Nguồn:
- Nghị luận câu nói Mọi thứ rồi sẽ qua chì còn tình người ở lại (16/07) Nguồn:


