Phân tích câu: Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

Thứ ba , 21/03/2017, 22:52 GMT+7
Trọng truyện Lục Vân Tiên, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết: Vì chưng hay ghét cũng là hay thương. Em hiểu ý thơ trên như thế nào? Hãy bàn về Lẽ ghét thương trong cuộc sống hàng ngày.
Truyện Lục Vân Tiên là truyện thơ nổi tiếng nhất, phổ biến rộng rãi nhất của Nguyền Đình Chiểu (1822 - 1888), nhà thơ mù đất Đồng Nai trong thế kỉ XIX. Truyện thơ nói về trung hiếu, tiết hạnh của đạo làm người, xoay quanh hai nhân vật Lục Vàn Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
 
1. Đoạn thơ Lẽ ghét thương là lời phát ngôn của nhân vật ông Quán, một nhà nho từng “Xem quơ kinh sử mấy lần ”, rất lo đời và thuờng đời. Có thể nói câu thơ “chưng hay ghét cũng là hay thương" là tư tưởng, tình cảm, lí tưởng của ông Quán, và đó cũng là tư tưởng, tình cảm, lí tưởng của Nguyễn Đình Chiểu - người đã và đang sống giữa thời loạn lạc, khi dân đen chìm đắm trong máu lửa, lầm than.
 
“Hay ghét" là ghét nhiều, ghét lắm, ghét sâu sắc, ghét không bao giờ nguôi. Ghét Kiệt, Trụ, ghét U, Lệ ghét năm tên đời Ngũ bá. đời thúc quý. Đó là bọn vua chúa thời Xuân thu Chiến quốc xa xưa bên Tàu, những kẻ “mê dâm ”, “đa đoan ”, đã gây ra cảnh chiến tranh loạn lạc, làm cho dân đen vô cùng đau khổ, bị “sa hầm sẩy hang ”, chìm đắm trong “lầm than muôn phần ”, đổ bao máu và nước mắt. Ông Quán đã đứng về phía nhân dân mà “Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm" bọn vua chúa xấu xa, tàn bạo đã “Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn ". Chữ “ghét", trong đoạn thơ thê hiện lòng căm thù bầm gan tím ruột của ông Quán đối với những kẻ, những việc làm “tầm phào " làm cho dân lành đau khổ lầm than.
 
Ông Quán không chỉ “hay ghét” mà còn "hay thương". Ông hướng tinh thương tha thiết, mãnh liệt vào những bậc hiền nhân quân tử đức trọng tài cao mà không gặp thời, trải qua nhiều bất hạnh như Khổng Tử, Nhan Tử, Gia Cát Lượng, Đổng Tử, Nguyên Lượng, Hàn Dũ, Liêm Khê (Chu Đôn Di), Trình Hạo, Trình Di (Lạc: Lạc Dương).
 
Lẽ ghét, thương đã thể hiện tình cảm lo đời, thương dân của ông Quán. Và đó cũng là tâm sự, tâm trạng của Nguyễn Đình Chiểu đang sống giữa thời loạn lạc: đất nước bị bọn Lang-sa xâm lăng, nhân dân điêu linh trong bể khổ. Có thể nói, nhà thơ mù đất Đồng Nai đã kí thác tình yêu nước thương dân của mình qua nhàn vật ông Quán, một nho sĩ bình dân đang trốn đời đi ở ẩn. Đoạn thơ Lẽ ghét thương thể hiện “tính nhân dân sâu sắc " của Truyện Lục Vân Tiên, của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
 
2. Thơ là cuộc đời và tâm hồn thi sĩ. Lẽ ghét thương được Nguyền Đình Chiểu viết cách chúng ta ngày nay khoảng 150 năm. Từ những vần thơ này, ta biết được phần nào tâm sự của nhà thơ mù đất Đồng Nai, ta cảm nhận được cuộc sống đau khổ, lầm than cùa nhân dân thời loạn lạc bấy giờ. Học “lẽghét thương” của ông Quán, ta nghĩ và nói về lẽ ghct thương của mình.
 
Trước hết là tình thương. Đất nước ta đã bị ngoại bang xâm lăng, bị chúng đem bom đạn đến đốt phá, tàn sát, dìm đất nước ta, nhân dân ta trong bể máu và nước mắt. Một thế kỉ làm thân trâu ngựa cho ngoại bang, 30 năm phải cầm súng chống lại thực dân Pháp và dế quốc Mỹ xâm lược. Thương hàng triệu đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống trong bom đạn kẻ thù. Thương những bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương những mẹ goá con côi sau chiến tranh, thương những nạn nhàn chất độc da cam, những thương binh, những người tàn phố trên khắp mọi miền đất nước. Thương bà con và tuổi thơ ở vùng sâu vùng xa gặp nhiều khó khăn,...
 
Thương nhiều nên ta ghét cay ghét đắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ghét bọn Việt gian bán nước cầu vinh, rước giặc về tàn sát đồng bào. Ghét bọn tham quan ô lại đã và đang bòn rút xương tuỷ nhân dân, sống phè phỡn trên nước mắt, mồ hôi của đồng bào, chiến sĩ. Ta không ưa nạn bạo lực học đường, không ưa những thanh thiếu niên hư hỏng: lười biếng, ăn chơi, nghiện ma tuý, nghiện game Online,...
 
Đất nước ta đang trên đà đổi mới, phát triển, nhàn dân ta đang được sống yên vui, thanh bình. Đó là niềm tự hào của mỗi chúng ta. Sống thì có yêu, có ghét, đó là lẽ đời. Yêu. ghét phải nhân bản, nhân văn.
Nguồn:
vi chung hay ghet cung la hay thuong