Phân tích bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu

Thứ bảy , 25/03/2017, 13:05 GMT+7
Vội vàng là bài thơ thể hiện được rõ nhất cái hồn của Xuân Diệu. Vội vàng chính là lòng yêu đời, yêu người, yêu cảnh, yêu tuổi trẻ, yêu mùa xuân một cách vồ vập, hăm hở. Đó là sự thèm sống, thích sông, là biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn. Niềm khao khát vui sống ấy của tác giả trào lên trong từng câu thơ.
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
 
Mở đầu bài thơ Vội Vàng là những ước muôn lớn lao của Xuân Diệu trước một khu vườn của mùa xuân tràn sức sông. Điệp từ “tôi muốn” được nhắc lại hai lần như để khẳng định thêm niềm khao khát, khao khát cái mà nhà thơ không thể làm được, đó là việc đi chinh phục vũ trụ, và chính vì không làm được nên mới mong mỏi. Tuy vậy, những câu thơ đầu không mang sắc điệu buồn bã hay tuyệt vọng vì bất lực trước thiên nhiên mà vẫn nêu bật tình yêu cuộc sông.
 
Tác giả sợ nắng lâu sẽ làm cho màu nắng không còn được tươi nguyên như lúc mới lên, sợ gió thổi nhiều cuôh đi bao hương hoa của cây cỏ, làm mất đi vị hương trinh nguyên của cuộc sông. “Tắt”, “buộc” là những động từ nhấn mạnh ý muôn của tác giả, điệp từ “dừng” trở đi trở lại làm tăng thêm nỗi lo lắng, sợ hãi của nhà thơ. Xuân Diệu níu kéo, phát hoảng trước mọi hiện tượng, cảnh vật đang phai đi, mất đi vẻ đẹp ban đầu của nó. Từ “đừng” còn thể hiện cả sự tiếc nuôi ngậm ngùi.
 
Bốn câu thơ tuy không nói gì về thời gian nhưng ẩn đằng sau sự lo lắng mọi thứ mờ đi, nhạt đi chính là sợ sự luân chuyển của thời gian, vì chỉ có thời gian mới làm cho mọi sự vật, hiện tượng thay đổi được. Mặc dù thế nhưng âm thanh của cuộc sông vẫn rộn ràng vang lên trong lòng thi sĩ. Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đáy lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hạng mi Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa.
 
Những âm thanh, hình ảnh của đời sống tràn vào trong thơ tự nhiên, dòng tâm tư tuôn chảy dào dạt, hồn nhiên như nhịp điệu của thời gian. 
 
Đó là tiếng reo vui của tác giả trước cảnh sắc rực rỡ, đầy nhựa sông của khu vườn mùa xuân. Điệp ngữ “này đây”, “này đây” dồn dập nói lên sự phong phú dường như là bất tận của thiên nhiên, tác giả say sưa kể hết bướm ong, oanh yến cho đến hoa lá của đồng nội. Tất cả cảnh vật đều được khoác lên một sức sông sôi động tràn trề. Lạc vào khu vườn ấy tác giả ngất, ngây với cảnh vật, say sưa với đất trời đến nỗi ngỡ như thời gian lúc này “ngon” như một cặp môi gần.
 
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
 
Một hình ảnh so sánh rất kì lạ, kì lạ và kì diệu. “Cặp môi gần” - cái mà ai đôi diện với nó cũng khó lòng kiềm chế nổi, huống hồ ở đây lại là một Xuân Diệu rất trẻ, rất đa tình, Trong câu thơ tác giả đã so sánh vẻ đẹp của thiên nhiên giống con người - con người là chuẩn mực của cái đẹp, thiên nhiên làm nền cho con người đẹp thêm. Tháng giêng là tháng của vạn vật sinh sôi nảy nở trong mùa xuân, là tháng bắt đầu cho một sức sống mới của thiên nhiên. “Cặp môi gần” là cặp môi quyến rũ, bắt đầu cho một tình yêu — một mùa xuân của lòng người. Xuân Diệu tham lam như muôn nếm, muôn ngôn hết vị của tháng giêng và cả vị của cặp môi gần, có như thế mới biết là “ngon”. Câu thơ bộc lộ rõ nỗi khát khao được giao cảm với đời của Xuân Diệu, khi lòng thi sĩ reo ca, ông thấy như đất trời cũng nghiêng xuống nồng nàn với tâm hồn mình.
 
Xuân Diệu vui sướng đấy, rồi lại chán chường đây.
 
 
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
 
Câu thơ thể hiện quan niệm sông của Xuân Diệu rất rõ. Tác giả sung sướng reo ca hết mình nhưng rồi lại vội vã, cuông quýt lo sợ. Một nửa bên kia thì sung sướng trước sự sung mãn của đất trời, của tuổi trẻ nhưng một nửa bên này lại lo lắng cho cái sung mãn ấy mất đi. Có lẽ Xuân Diệu là người luôn sông trong nỗi lo lẳng, sợ hãi này vì ông biết được, hiểu được rất rõ mọi thứ trong cuộc đời rồi sẽ đi qua theo thời gian, năm tháng. Lúc mọi thứ đẹp nhâ't cũng là lúc nó sắp tàn lụi. Đó là lí do chính đáng để Xuân Diệu lo lắng, vội vàng, sông gấp.
 
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
 
Đây là một quan niệm sông rất thật của Xuân Diệu, ông muôn sông bằng những gì của thực tại. Mùa xuân đẹp thì phải sông giữa mùa xuân chứ không phải để hạ về mới tiếc nuôi xuân qua. Cũng giông như cuộc sông, ông muôn sông với cái thế giới trần tục nhưng có thật này mà không phải là một thế giới huyền bí xa hoa nào khác - đó là sự ảo tưởng, đi ngược lại quy luật của cuộc sống.
 
Nỗi buồn của tác giả thấm vào từng câu thơ.
 
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mât Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian.
 
Những câu thơ làm bật nổi triết lí về thời gian. Thời gian không ngoái đầu lại với quá khứ. Thời gian luôn hướng về tương lai. Tác giả đoán trước được những gì sẽ xảy ra ở tương lai, có tới sẽ có qua, có non sẽ có già, đấy dường như là quy luật ngàn đời nay của tạo hóa. “Xuân hêt - tôi cũng mất”, tứ thơ tạo cảm giác đau đớn, khi mùa xuân đi qua, tình yêu tuổi trẻ không còn nữa, tác giả coi như cuộc sống của mình cũng kết thúc. Và cái kết thúc ấy đang đến rất gần Xuân Diệu nên ta có cảm giác nhà thơ đang bắt đầu rên xiết. Lượng trời thì bao la thế mà so với sức xuân của tác giả nó bỗng trở nên quá ư chật chội. Lượng trời ở đây có lẽ là lượng thời gian, thời gian của tuổi trẻ không dài, thậm chí nó rất ngắn, rất vội, rất mau. Lượng thời gian ấy không cho phép tuổi trẻ tồn tại mãi, kéo dài mãi.
 
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn đất trời nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đât trời.
 
Mùa xuân của đất trời ra đi rồi hãy còn quay trở lại, nó tuần hoàn theo quỹ đạo bốn mùa của thời gian, còn tuổi trẻ có bao giờ trở lại? Đời người chỉ có một mùa xuân duy nhất, khi tuổi trẻ qua đi thì tất cả dư vị ngọt ngào của cuộc sông cũng theo đó mà đi nôt. Vậy thì nói rằng Xuân Diệu tuẩn hoàn làm chi khi mà tuổi trẻ không một lần thắm lại. Vũ trụ thì mãi mãi vẫn còn, đời người thì có hạn. Vì vậy mà nhà thơ tiếc, tiêc cái gì “tiếc cả đất trời”. Liệu có tham lam quá không? Nghĩ đến ngày mai cuộc sống của mình dừng lại nên tác giả tiếc nuối tất cả: tình yêu, tuổi trẻ, mùa xuân, sự sông - cái tiếc mang tính thẩm mỹ sâu sắc. Phải yêu cuộc sông đến tha thiết thì nhà thơ mới có cái cảm giác bâng khuâng tiếc nuôi đến nhường ấy.
 
Mùi tháng năm đều sớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi Chim vội vàng bỗng cất tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa. 
 
Tất cả vạn vật đều được Xuân Diệu ghép sẵn cho một linh hồn đê cùng nếm vị chia phôi, mọi thứ đều rộn rã, tan tác, chia lìa. Vạn vật sợ sự chia li hay chính lòng người đang run sợ? Xuân Diệu vô'n là người luôn cuông quýt trước bước đi của thời gian ấv vậy mà năm tháng vẫn trôi đi như vô tâm, vô tình, như không hiểu dược lòng người. Những tháng ngày và cuộc sông trong mùa xuân náo nức, rạo rực tràn nhựa sông xuân sắc như thế, tác giả chưa kịp sông hết cái sung mãn của đất trời, của lòng người đã phải cất lên bài ca tiễn biệt. “Phải chăng”, “phải chăng” được điệp lại hai lần đâu phải để nghi ngờ, để hỏi nữa mà thực châ't là để khẳng định cái chia lìa của mọi thứ là thật rồi. Câu thơ mang giai điệu tuyệt vọng được câ't lên một cách thảm sầu.
 
Chẳng hao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.
 
“Chẳng bao giờ” ở đày là chẳng bao giờ gì? Phải chăng “chẳng bao giờ” mùa xuân tươi đẹp đó quay lại nữa? Không hẳn là như thế, bởi xuân của đất trời mỗi năm lại đến một lần, chỉ có tuổi trẻ thì không thế có lần thứ hai. Vậy nên câu thơ là sự khẳng định sự khắc nghiệt của thời gian. Thời gian không đứng đợi, thời gian luôn trôi đi cucm theo tuổi trẻ và mùa xuân của con người - đó là điều luôn ám ảnh trong lòng thi sĩ Xuân Diệu. Sự tàn lụi của mùa xuân, tuổi trẻ như sự hủy diệt của đời người. Câu thơ não nuột, tuyệt vọng tưởng chừng như Xuân Diệu đã không đứng vững trước cái thời gian đang ào ạt tuôn chảy, vậy mà âm thanh của cuộc sông, của sự ham muốn cuồng si vẫn lại vang lên trong tâm hồn người thi sĩ không bao giờ chịu già kia.
 
Ta muốn ôm
Cả sự sống đang bắt đẩu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn sav cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước và cây và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
 
Những vần thơ quân quýt, ôm ghì lấy nhau, đó là những lời thơ thể hiện một tình yêu cuồng nhiệt nồng cháy trong lòng thi sĩ Xuân Diệu dôi với cuộc sông. Chính vì hiểu được tuổi trẻ không một lần thắm lại, chính vì hiểu được chỉ có một lần sông trong mùa xuân của đời người nên Xuàn Diệu cuống quýt, muôn ôm lấy cả cuộc sông ở thời kì tươi đẹp sung mãn nhất đó. Nhà thơ rất sợ mọi điều đẹp đẽ của cuộc sông tuột khỏi tầm tay. Với Xuân Diệu cuộc sông được khởi đầu từ sức xuân, từ tuổi trẻ và nó sẽ khép lại khi tuổi trẻ tàn, đời người coi như cũng châm dứt. Mở đầu là “tôi muốn” đến đây đại từ nhân xưng đã được đổi ngôi sang “ta muốn” nhằm khẳng định cái khát khao trỗi dậy của cái tôi cá nhân một cách mạnh bạo, mãnh liệt. Ta có cảm giác chàng thơ Xuân Diệu đang chếnh choáng bước đi giữa một vườn hoa của đất trời và mùa xuân của tuổi trẻ tràn trề hạnh phúc, tác giả ngụp lặn trong đấy như lạc cả lối về. Giữa khu vườn đầy hương sắc ấy chỉ có sự say mê cuồng nhiệt, chỉ có tình yêu và tuổi trẻ. Tất cả khát vọng, sự ham hố của Xuân Diệu dường như được dồn nén lại trong lòng dã lâu mà giờ mới có dịp trào ra.
 
Hỡi xuân hồng ta muốn cẩn vào ngươi.
 
Xuân Diệu không chỉ muôn ôm, muốn siết, muôn thâu, muôn no nê chếnh choáng mà còn muôn cắn vào mùa xuân nhiều dam mê. Đó là những ước muôn thể hiện một tình yêu cuồng nhiệt, không phải chỉ yêu mà có cả sự khát khao, thèm muôn đến tột độ. Tác giả muôn níu lại mùa xuân của đất trời, cả mùa xuân của lòng người. Điệp từ “ta muốn" nhắc lại nhiều lần bộc lộ tình yêu hăm hở, vội vàng, cuông quýt, nồng nàn và mãnh liệt của Xuân Diệu đôi với cuộc sông mới đang mơn mởn ngoài kia. Giọng thơ ở đây trở nên khỏe khoắn, gấp gáp và táo bạo... Tất cả, tất cả là để thể hiện tình yêu cuồng si của chàng thi sĩ trẻ tuổi mà đặc biệt là trẻ lòng. Bài thơ khép lại bằng câu thơ chứa đầy âm hưởng của một lời mời gọi tha thiết, của một tấm lòng luôn thắm thiết với cuộc sông. Tình yêu đó mang ý nghĩa nhân văn cao cả, giúp cho con người biết sống hết những kích thước và giá trị của cuộc sông.
 
Vội vàng đã thể hiện được hai trạng thái gần như đôì lập nhưng thống nhất trong tâm hồn đầy khao khát, nồng nhiệt tình yêu đời, yêu người, yêu cuộc sông, yêu tuổi trẻ của Xuân Diệu. Nhà thơ đã bộc lộ ý tưởng thật phong phú, cách diễn đạt thật mới mẻ, táo bạo, góp phần đáng kể cho việc cách tân thơ mới.
 
Bài thơ thể hiện ước muốn giải phóng cái tôi cá nhân một cách mãnh liệt. Nhưng nói cho cùng cái đọng lại ở bài thơ vẫn là tình yêu cuộc sống. Và điều đó từng đã được Xuân Diệu khẳng định: “Tôi rất sợ sự lạnh nhạt, sở dĩ tôi tha thiết như vậy là muốn xứng đảng với lòng thiết tha. Tôi gửi tâm hồn cho những người trẻ tuổi và nhất là trề lòng, những “Thơ thơ” cũng là những cái bỏng lưỡi, hay những cơn buốt môi, vì đã uống tham lam vào suối của mặt trời, đã ăn hàm hồ vào trái của mùa xuân. Và khi nào người ta đã xua tay khống còn khát thèm, là lúc người ta đã không còn vui sống nữa...” (Xuân Diệu). Và bài Vội vàng chính là minh chứng rõ ràng nhất cho con người trẻ tuổi, trẻ lòng ấy - con người Xuân Diệu.
Nguồn:
bai tho voi vang