Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương để làm rõ ý kiến: "Qua bài thơ Vịnh khoa thi Hương, tác giả vẽ nên một phần hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu, đồng thời nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước".
Thi cử là một trong những đề tài luôn luôn được các nhà nho quan tâm. Đây là đề tài khá đậm nét trong sáng tác của Trần Tế Xương. Ông có tất cả 13 bài vừa thơ vừa phú về đề tài này. Những sáng tác của ông đã thể hiện thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ đối với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường khoa cử của riêng ông. Vịnh khoa thi Hương là bài thơ tiêu biểu của Trần Tế Xương về đề tài thi cử.
Giới thiệu về hoàn cảnh của khoa thi: Hai câu thơ đầu giới thiệu về hoàn cảnh của khoa thi:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Dưới thời phong kiến, cứ ba năm có một khoa thi Hương. Vì vậy, câu thơ đầu khẳng định nhà nước ba năm mở một khoa thi đế chọn nhân tài. Điều đó không có gì đặc biệt. Đáng lưu ý là câu thơ thứ hai: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Trường Nam là trường thi ở Nam Định. Trường Hà là trường thi ở Hà Nội. Tác giả đã dùng từ “lẫn” để giới thiệu về cách tổ chức thi cử. Từ “lẫn” không chỉ giới thiệu hai trường tố' chức thi chung mà còn báo hiệu sự xáo trộn không đáng có trong thi cử và việc tồ chức thi không còn được như trước nữa. Qua hai câu thơ đầu, cũng phần nào ta thấy được tâm trạng của tác giả trước cách tổ chức thi của nhà nước phong kiến.
Tú Xương miêu tả cảnh trường thi
Hình ảnh các sĩ tử đi thi: Chỉ một câu thơ mà hình ảnh các sĩ tử hiện lên thật hài hước:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Thi cử là chuyện nghiêm túc. Những sĩ tử phải chững chạc, đàng hoàng, nho nhã. Ấy vậy mà ở đây các sĩ tử lại “lôi thôi”. Bằng cách đảo trật tự cú pháp: “Lôi thôi sĩ tử” câu thơ gợi lên sự nhếch nhác, ô hợp, thiếu trang nghiêm của các thí sinh dự thi.
Hình ảnh quan trường:
Bên cạnh hình ảnh nhếch nhác của các sĩ tử là hình ảnh của quan trường. Tác giả hạ một câu mà bộ mặt của quan trường được hiện rõ:
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Từ “ậm oẹ”, “thét loa” càng gợi lên sự nhốn nháo ô hợp của trường thi. Cả người tố chức thi cả người đi thi đều không còn uy nghiêm, trang trọng, mực thước như trước nữa mà thiếu nghiêm túc, thiếu lịch sự. Qua đó, ta thấy cảnh trường thi phản ánh sự suy vong, sự lỗi thời của đạo nho.
Hình ảnh vợ chồng quan chánh sứ:
Khoa thi Hương này có Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Pôn-Đu-me cùng vọ' đến dự. Cảnh đón rước này được tác giả miêu tả:
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra,
Cứ tưởng rằng sự có mặt của vợ chồng quan chánh sứ sẽ làm cho trường thi thêm nghiêm trang. Nhưng trái Ịại, sự đại diện cho chính quyền thực dân Pháp lúc này càng tăng thêm sự ô họp, nhốn nháo và chua chát. Nơi thi cử là nơi trang nghiêm mà mụ đầm thì váy lê quét đất. Bằng nghệ thuật đối giữa hai vế “Lọng cắm rợp trời” với “Váy lê quét đất”, tác giả không chỉ miêu tả cảnh trường thi chẳng ra gì mà còn cho thấy nỗi nhục nhã nơi chốn trường thi của một quốc gia.
Tâm trạng và thái độ của tác giả: Hai câu thơ kết là một câu hỏi:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Phải chăng tác giả hỏi các sĩ tử - những người đang chạy theo danh vọng. Câu thơ vừa là câu hỏi lại vừa là lời thức tỉnh về nỗi nhục chốn trường thi, về nỗi nhục mất nước. Câu thơ kết với từ “ngoảnh cổ” vừa bộc lộ nỗi đau chua chát vừa thế hiện thái độ rõ ràng, dứt khoát của tác giả. Giọng thơ vừa như day nghiến, vừa chứa đựng nỗi xót xa trước cảnh thi cử nhố nhăng của đất nước.
Bài thơ là bức tranh sinh động và hài hước về cảnh trường thi của xã hội phong kiến Việt Nam: nhốn nháo, nhô nhăng, ô họp... Bài thơ còn là nỗi lòng chua xót của tác giả và cùng là lời thức tỉnh tác giả muốn gửi đến những người sĩ tử đang theo đuối công danh. Ông nhắc nhở họ về cái nhục trong thi cử, về cái nhục của một người mất nước.
Tác giả rất thành công về mặt nghệ thuật: từ láy, đảo trật tự cú pháp, phép đối. Tất cả đã làm nên một bài thơ Vịnh khoa thi Hương để đời.
Nguồn:
- Phân tích khổ 2 bài thơ Tràng Giang của Huy Cận (14/12) Nguồn:
- Soạn bài Thao tác lập luận bác bỏ (14/12) Nguồn:
- Soạn bài Vội Vàng của Xuân Diệu nâng cao (14/12) Nguồn:
- Phân tích bài thơ Tôi yêu em lớp 11 (20/10) Nguồn:
- Bức tranh quê trong bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ (20/10) Nguồn:


