Phân tích bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương

Thứ sáu , 24/03/2017, 17:31 GMT+7
Phân tích bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương. Người ta thường ví xã hội phong kiến như một cái ao tù oi bức, nhếch nhác và đen tối mà Hồ Xuân Hương chính là bọt nước sủi lên từ đáy ao báo hiệu một sự sống ngầm.
Xuân Hương đã đi xa chúng ta hơn hai thế kỷ nhưng mỗi lần đọc lại thơ bà, ta vẫn thấy vị mặn chát của nước mắt, nỗi cay cực của cuộc đời hằn in trên từng trang viết. Tự tình nói lên tiếng lòng thầm kín của một con người luôn khát khao, vật vã trước số phận bạc bẽo, đắng cay.
 
Đêm khuya văng vẳng trổng canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
 
“Đêm khuya” đây là thời điểm mà con người ta dễ bộc lộ tâm trạng của mình nhất. Thời gian về đêm mà lại khuya lắm rồi, dường như mọi người đã chìm trong giấc ngủ thì chính lúc đó Xuân Hương đang thao thức, trăn trở không tài nào chợp mắt được. Cái thời gian ấy gợi một cảm giác vắng lạnh đơn côi. Điểm vào sự im ắng đến rợn người là âm thanh của tiếng trông canh “văng vẳng trống canh dồn”. Trong không gian tĩnh lặng đó dội lên một tiếng trống canh càng làm cho đêm đã vắng lại vắng thêm, nỗi buồn càng được nhân lên vời vợi giữa cái đêm sâu thăm thẳm ấy. “Dồn” - thời gian hối hả trôi đi vùn vụt mà không ai níu giữ được, ta có cảm giác Xuân Hương bế tắc vùng vẫy trước không gian rộng lớn, thời gian tuôn chảy.
 
Trơ cái hồng nhan với nước non.
 
“Trơ” nghĩa là trơ trọi, trong đêm sâu chỉ còn một mình Xuân Hương trơ ra đấy — không phải chỉ trơ cái nỗi buồn mà trơ “cái hồng nhan”. Hồng nhan là hình ảnh đôi má ửng hồng của người phụ nữ, ở đây là chỉ số phận người phụ nữ cũng như một kiếp hồng nhan trơ giữa tháng năm. Xuân Hương đã để câu thơ trong thế đối lập “cái hồng nhan” với “nước non”. Cái hồng nhan là chỉ một cá thể, một thân phận mà đây chính là Hồ Xuân Hương, còn nước non như để chỉ cuộc đời, chi xã hội, nên nỗi buồn, nỗi cô quạnh càng tăng thêm bội phần. Câu thơ thứ hai cực tả tâm trạng trần trụi, cô đơn, trơ trọi của một tâm hồn bị chà đạp, dập vùi. Chính vì thế tác giả đã tìm đến với rượu để chôn đi bao ngang trái cuộc đời.
 
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng hóng xế khuyết chưa tròn. 
 
Mỗi lúc buồn và chán nản, con người thường tìm đến men say. Say đế quên nỗi đời, nỗi đau... mọi nỗi. Trong thơ Lí Bạch, rượu còn có cả mĩ nhân, kĩ nữ, chếnh choáng bởi men tình.
 
Rượu ngon ba đựng hàng nghìn
Năm ba gái đẹp theo liền trong khoang.
(Khúc quân ngâm Lí Bạch)
 
hay “uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu” - biết là sầu đấy nhưng có lẽ cái “sầu” của một trang nam nhi trong thời đại trước còn cỏ cái thế để mà gỡ.
 
Hoặc Nguyễn Khuyến cũng từng nói đến chuyện tỉnh say:
 
Chén rượu bên đèn luống tỉnh say.
(Nguyễn Khuyến)
 
 
Thế nhưng đàn ông buồn uống rượu thì không phải là một chuyện lạ. Xuân Hương lại là phận đàn bà con gái mà cũng phải tìm đến rượu thì chắc rằng nỗi bế tắc, uất hận đã tận cùng lắm rồi nên bà mới ước ao nỗi đau của mình lắng trong hơi men. Nhưng rồi càng uống-càng tỉnh, càng tỉnh càng thấm thìa nỗi đau. Rượu trong thơ Hồ Xuân Hương không phải là chén rượu trong lúc “trà dư, tửu hậu” mà là một chén rượu chếnh choáng trong đau đớn, ngụp lặn, bi thương.
 
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
 
Hình ảnh vầng trăng cũng không còn lạ gì trong thơ trước đây. Nhưng trăng trong thơ xưa thường là vầng trăng sáng rực - vầng trăng chứng kiến bao lời hẹn non thề biển.
 
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
(Nguyễn Du)
 
Cũng đã có vầng trăng chia cắt song ít ai nói tới trăng xế như Hồ Xuân Hương cả.
 
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
(Nguyễn Du)
 
Với Xuân Hương thì chỉ có vầng trăng xế. “Xể” nghĩa là nó không còn tròn đầy, viên mãn, không nhiều sức sống nữa, xế nghĩa là đã sắp già. Đây là một hình ảnh vừa thực vừa ẩn dụ. “Xể”, “khuyết”, “chưa tròn” cả một loạt từ phủ định nhằm để khẳng định: vầng trăng sắp tàn rồi, tuổi xuân đã đi qua, đã sắp hết mà cuộc đời vẫn cứ dở dang, muộn màng, lận đận mãi. Khi cuộc đời chưa có hạnh phúc thì bất hạnh đã giáng xuống cũng như vầng tráng kia chưa kịp tròn đã xế và khuyết. 
 
Thế rồi Xuân Hương không cam chịu, Xuân Hương vùng dậy tranh đấu.
 
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
 
Hai câu thơ thể hiện tính cách mạnh mẽ, táo bạo của Hồ Xuân Hương. Nữ sĩ không chỉ biết buồn, biết kể lể mà còn biết hành động. Đó là sự quẫy đạp không dứt trong con người Hồ Xuân Hương, thể hiện sự ham sông, muốn sống của một con người không bao giờ cúi đầu chấp nhận số phận. Hình ảnh thơ được đặc tả bằng lối đảo ngữ. Lẽ ra là phải từng đám rêu, mấy hòn đá. Cách dùng từ, đảo ngữ làm cho mọi cảnh vật đều có sức sống, đều muốn cựa mình. Các động từ “đâm toạc”, “xiên ngang” là những từ thuần Việt, là khẩu ngữ dùng trong cuộc sông đời thường nhưng táo bạo, dữ dội và quyết liệt biểu hiện sự đấu tranh không cam lòng. Giọng điệu này, cách dùng từ kiểu này không chỉ có trong bài Tự tình 1 mà được Xuân Hương nói rất nhiều trong các bài thơ khác bởi một lẽ thật giản đơn: cuộc đời bà toàn những điều ngang trái, mà khi đã nói thì không nên nể, đã nói thì bà phải nói cho ra nhẽ, cho bớt được những uất ức trong lòng. Xuân Hương muôn đạp toang bức thành phong kiến để được tự do, để có hạnh phúc.
 
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con.
 
Câu thơ bỗng chuyển điệu, chùng hận xuống như một tiếng thở dài xót xa, cay đắng. Nữ sĩ ngán ngẩm lắm rồi trước cảnh đời đen bạc. Dẫu có quyết liệt đến đâu thì Hồ Xuân Hương cũng chỉ là phận gái trong chế độ nam quyền độc đoán. Có đấu tranh thì cũng rơi vào bế tắc, thì cũng phải chấp nhận cái thực tại phũ phàng, tàn nhẫn. “Xuân” được tác giả dùng với ý nghĩa tượng trưng. Mỗi mùa xuân sang lại già thêm một tuổi, và đã có biết bao mùa xuân đi qua như thế nên Xuân Hương cứ vậy mà già theo.
 
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại.
 
“Xuân lại” - một lần nữa, “lại” - động từ, quay trô lại. Xuân đến xuân đi hững hờ mặc cho cuộc đời con người quay cuồng theo con tạo. Câu thơ mang ý nghĩa triết lí về thời gian - thời gian mênh mông vô hạn mà tuổi trẻ của con người thì có điểm dừng, đặc biệt là người phụ nữ chỉ có một thời xuân sắc ngắn ngủi. Nữ sĩ ngao ngán vì năm tháng trôi di nhưng cuộc đời vẫn lỡ làng.
 
Mảnh tình san sẻ tí con con.
 
Suốt đời làm lẽ, không có được hạnh phúc trọn vẹn, đủ đầy, Xuân Hương chỉ có một “mảnh tình” nhỏ bé, mong manh, dễ vỡ, dễ mất. Mảnh tình ấy lại còn phải “san sẻ”, “tí”, “con con”. Cách dùng từ láy rất đắt của thi sĩ đã diễn tả thật xuất sắc nỗi chua chát, ngán ngẩm của một người phụ nữ tài ba nhưng bất hạnh.
 
Tự tình là bài. thơ trữ tình nhằm bộc lộ nỗi buồn, sự cô đơn thấm thìa, khao khát tình cảm của một con người vốn yêu đời, yêu cuộc sống nhưng lại lận đận trong duyên tình, dang dở tuổi xuân. Bài thơ như một tiếng kêu thương, một lời tố cáo về xã hội - cái xã hội đã bóp nghẹt linh hồn sống của bao kiếp má hồng, làm héo hon, tàn tạ bao số phận con người.
 
Bài thơ được viết bằng chữ Nôm, ngôn ngữ giản dị nhưng nhà thơ đã biết tận dụng sức mạnh của tiếng Việt để nói chua chát, sâu xa những nỗi niềm chất chứa trong lòng. Đọc Tự tình của Hồ Xuân Hương ta có cảm giác như được đập chung nhịp đập với trái tim nhà thơ, đau luôn nỗi đau của nữ thi sĩ bất hạnh nhưng tài ba ấy. Đó chính là chất nhân văn trong tự tình. Thơ Hồ Xuân Hương đúng là bài ca về người phụ nữ.
Nguồn:
phan tich bai tho tu tinh