Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

Thứ bảy , 25/03/2017, 10:29 GMT+7
Huy Cận từng nói “Tràng giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh một bài thơ về tâm hồn. Nhìn dòng sông lớn gợn những lớp sóng tôi cảm thấy nỗi buồn của mình củng đang trải ra như những lớp sóng.” Và đó là tất câ lí do để ông viết lên bài Tràng giang.
 
Bài thơ được mở ra bằng những chi tiết thực mộng xen lẫn.
 
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
 
Tác giả đôi diện với con sông Hồng khi mặt nước chỉ gợn nhẹ - “sóng gợn” là rất nhỏ, chỉ lăn tăn đủ làm cho mặt sông rung nhẹ, dao động. Mặt sông không có những chấn động lớn mà lòng người “buồn điệp điệp” - là một nỗi buồn kéo dài. Từ “điệp điệp” nhấn lại hai lần càng kéo nỗi buồn thành dai dẳng, triền miên, nỗi buồn không dứt. Cảu thơ tạo sự trầm lắng trong lòng người đọc. Hình ảnh con thuyền xuất hiện trên dòng nước mà như vô tâm, vô tình, thuyền và nước vốn đâ gắn bó, gần gũi bao đời, vậy mà ở đâv thuyền - nước lại song song với nhau như thể chẳng bao giờ gặp nhau cả. Cũng đã có nhiều cách hiểu về hình ảnh “con thuyền xuôi mái nước song song”. Có người cho rằng khi thuyền trôi trên dòng sông thi nó sẽ đẩy nước trỏ lại nên tạo ra hai dòng nước song song ở mạn thuyền, đó là một hình ảnh tả thực. Có người lại cho rằng hình ảnh song song gây cảm giác chia lìa. Thuyền gợi sự nổi niềm của kiếp người trong xã hội cũ. Nỗi buồn của tác giả càng đậm sâu hơn trong những câu thơ tiếp theo.
 
Thuyền về - nước sầu - sóng buồn... tất cả cảnh vật đều mang theo tâm trạng buồn của thi nhân. Nước thì chỉ có làm bầu bạn với thuyền, thuyền về thử hỏi nước làm sao không buồn được, ơ đây nỗi buồn đă nhân lên thành nỗi sáu, sầu cho sự xa cách, tan tác, chia lìa. “Thuyền về - nước lại” cả hai đi ngược chiều nhau, càng đi càng xa, càng cô đơn, lẻ loi, heo hút như chính tâm trạng của người đứng ngẩm. Nước “sầu trăm ngả” thì lòng người của sầu trăm mối. Cái sầu của nước, cái buồn của sóng, cái ra đi của con thuyền có lẽ cũng chưa phải là cực điểm của nỗi buồn. Chính cành củi khô trôi dạt trên dòng sông mới là hình ảnh cực tả nỗi côi cút trong tâm hồn Huy Cận.
 
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
 
Trên dòng sông dài rộng, mênh mông, rợn ngợp chỉ lẻ loi một nhành củi nổi trội lạc lõng, bé nhỏ và tội nghiệp. Củi duy nhất chỉ có một cành - gợi sự đơn lẻ giữa vũ trụ bao la rộng lớn. Đã thế lại còn “khô”, củi khô tức một cành củi đã bị vắt kiệt hết cả sức sống, đó là một cành củi chết, vậy mà cành củi lại bị mất phương hướng “lạc” - biểu hiện sự trôi dạt vô định, chẳng biết sẽ đi đâu về đâu, không đích để hướng tới, nó bị lạc không chỉ một dòng mà “mấy dòng” — tan tác cả rồi. Tất cả những hình ảnh, những từ ngữ được dùng trong câu thơ đã lột tả được sự cô độc của nhành củi. Củi trôi giữa dòng nước mà khô mới lạ. Số phận của nhành củi là do nước quyết định. Nhành củi gợi lên thân phận lạc loài, vơ vất của một kiếp người trôi nổi. Với nghệ thuật đảo ngữ câu. thơ đã góp phần diễn tả được nỗi niềm của thi nhân trong một buổi chiều chỉ có mình đối diện với vũ trụ, sông nước bao la.
 
 
Khổ thơ đầu hay từng chữ một và dường như hình ảnh nào cũng mang dáng dấp của Tràng Giang, của linh hồn thi sĩ Huy Cận - một người luôn mang tâm trạng sầu tình, sầu đời vì thấy mình bế tắc trước cuộc đời.
 
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống chiều lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
 
Cảnh vật trong buổi chiều vắng vẫn đìu hiu và buồn tẻ, không có gì sáng hơn lên. Nghệ thuật đảo ngữ làm cho mọi cảnh vật đều co rúm lại, đơn chiếc lẻ loi, thưa thớt. “Lơ thớ” là từ láy gợi hình tượng, xa xa chỉ điểm một vài cồn nhỏ làm cho cảnh đã hoang vắng rồi lại càng hoang vắng thêm. Gió cũng không thèm thổi mạnh mà chỉ “đìu hiu” gợi cảm giác hiu hiu đạm đạm, một nỗi buồn xa vắng. Ngọn gió của đất trời hắt vào lòng người cái buồn khó diễn đạt thành lời.
 
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
 
Câu thơ đã có nhiều ý kiến tranh cãi. “Đâu” là một từ để hỏi, vậy Huy Cận dùng để hỏi cái gì? Có lẽ là hỏi về âm thanh của cuộc sông. Có người cho rằng trong một buổi chiều vắng lặng như thế nhưng Huy Cận vẫn nghe được từ rất xa cái âm thanh của cuộc sống con người vẳng lại, tức là nghe đâu đây cái tiếng làng xa trong một buổi chiều, chợ đã vãn.
 
Có người lại bảo nếu như theo mạch thơ từ đầu đến cuối thì câu thơ này phải là một câu hỏi “đâu rồi”, tức là đâu rồi cái âm vang của cuộc sông. Tiếng ồn ào thưa thớt của buổi chiều vãn chợ cũng đã không còn nữa, có nghĩa âm thanh của cuộc sông cũng đã bị cắt đứt không còn một môi liên kết nào nên nỗi cô đơn đã chuyển thành sự vô vọng. Mong mỏi nghe được một tiếng nói của cuộc sống cũng không được. Vậy có lẽ cách hiểu thứ hai này mang đầy đủ ý nghĩa biểu cảm sâu sắc hơn. Có như thế thì những câu thơ tiếp sau mới chứa đựng cái không gian rợn ngợp, đáng lo ngại. Một không gian ba chiều hiện rõ lên trong câu thơ.
 
Nắng xuống trời lên sâu chót vót.
 
Không phải là “cao” chót vót mà là “sâu”, không gian có cả chiều dài, chiều rộng, chiều sâu, con người bỗng lọt thỏm giữa bầu trời cao rộng ấy nên thấy mình càng bơ vơ, bé nhỏ. Trơ trụi hơn. “Sông dài trời rộng bến cô liêu” cảnh vật sững sờ, thế nhưng vẫn biết buồn. “Bến cô liêu” là bến vắng người lại qua, ta có cảm tưởng giữa đất trời và sông nước mênh mông ấy chỉ có một mình Huy Cận đứng đấy cho nỗi sầu dâng lên tột đỉnh.
 
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
 
Câu thơ chia lìa tan tác, cánh bèo gợi sự bọt bèo của thân phận con người. “Bèo dạt hàng nối hàng” nhưng lại không có phương hướng, chưa biết sẽ cập lại ở bến bờ nào và liệu còn có bến đỗ cho những cánh bèo lạc loài trôi trên sông nước vô định hay không? Giữa mênh mông sông nước không lấy một bóng người qua lại làm cho cảnh vật thật buồn tẻ, cô quạnh. Từ “Không cầu” xuất hiện ở đây cũng có hai cách hiểu. “Cầu” đó là cái bắc qua sông để nối liền hai đầu xa cách, nối liền đôi bờ nhưng cũng chẳng có. “Không cầu” ở đây muôn nói đến mối quan hệ với cuộc sông bị cắt đứt hẳn. Niềm khát khao giao cảm với đời đã bị chặn đứng lại, tác giả cảm thấy bế tắc trước cuộc sống. “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, cảnh vật buồn, mọi thứ cứ trải dài ra bên ngoài càng làm tăng thêm sự xao động trong lòng thi nhân. Đây là nỗi cô đơn tột cùng của một tâm hồn yêu đời, thiết tha với cuộc sông nhưng lại không giao hòa được với cuộc sông từ đó thể hiện thái dộ phủ nhận thực tại của tác giả.
 
Đối diện với dòng sông mênh mông, tác giả bỗng thấy nhớ quê nhà tha thiết.
 
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cảnh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
 
Cảnh buồn song vẫn có được vẻ đẹp kì vĩ, cổ kính của thiên nhiên vạn vật. “Lớp lớp” có sức gợi lớn, tạo nên tầng tầng, lớp lớp của những áng mây đùn nhau vươn lên tạo thành dáng núi. Giữa không gian ấy xuất hiện cánh chim bé nhỏ, đơn côi, chim chiều chiều thường tìm về tổ ấm nên cũng nghiêng cánh vội vã, gợi ra cảm giầc tội nghiệp đáng thương. Nhìn sông nước “dạn dọn” lòng Huy Cận bỗng nhớ quê hương. Cái “dợn dợn” ở đây là của sóng hay của chính tâm hồn tác giả? Đứng giữa một buổi chiều buồn nhưng đẹp như vậy ai lại không nhớ quê nhà? Câu thơ cuối là một hình ảnh rất đẹp, đọng lại bao ý nghĩa tiềm ẩn. Trước đây Thôi Hiệu ở Trung Quốc cũng đã nói về nỗi lòng nhớ quê hương của mình trước một buổi chiều hoàng hôn rất hay.
 
Quê hương khuất hóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
 
Huy Cận từng viết “Tôi thường nói vui rằng cảnh trên sông nước có khói làm cho Thôi Hiệu buồn, nhớ quê, còn tôi thì không có khói sóng cũng da diết nhớ quê hương”. Bài Tràng Giang đã kết hợp được cả thơ ca truyền thống, những nét cổ điển của thơ Đường, với những nét hiện đại. Những hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, “củi một cành khô”, “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” mang tính chân thực của đời thường, không ước lệ, và cũng có nhiếu hình ảnh mang vẻ đẹp tượng trưng. Tình yêu trong bài Tràng giang gợi lên và mở ra một tình yêu lớn lao hơn mỗi miền quẻ, mỗi cảnh vật, Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, riỗi buồn về đất nước. Huy Cận nhìn cảnh trời chiều trong tâm trạng cô đơn và cảm thấy nhớ nhà, cảm thấy một mối tình tha thiết với quê hương. Tình yêu nhà, yêu quê hương chính là tình yêu nước của tác giả. Nhà thơ buồn vì nước nhà đang nằm trong cảnh lầm than, đó là cái buồn đẹp.
 
Tràng giang là một bài thơ mang cảm hứng vũ trụ. Bài thơ bộc lộ nỗi buồn của tác giả, của con người được mệnh danh là kẻ chuyên đi nhặt nhạnh những nỗi sầu của thế gian. Nhà thơ cảm thấy cô đơn, trơ trọi giữa đất trời, giữa cuộc đời, tác giả bế tắc trước cuộc dừi, và đó cũng chính là bi kịch chung cùa những nhà thơ lãng mạn trước cách mạng. Đồng thời thế hiện tình yốu quê hương đất nước, yêu cuộc sông đẽn dạt dào cháy bông cúa tác giả.
 
Bài thơ được Huy Cận sử dụng nhiều hình ảnh cổ điển mang âm hưởng thơ Đường nhưng vẫn toát lên được cái đậm đà bản sắc dân tộc của hồn thơ Việt Nam.
Nguồn:
phan tich bai tho trang giang