Phân tích bài thơ Tống Biệt Hành của Thâm Tâm
Phân tích bài thơ Tống Biệt Hành. Nói tới Thâm Tâm là người ta suy nghĩ ngay đến Tống biệt hành, nghĩ đến một cuộc tiễn đưa với nhiều buồn thương nhớ tiếc.
Nỗi buồn thương tiếc nhớ ấy được chôn chặt tận đáy lòng để chỉ nổi lên trên bề mặt là sự dứt khoát, kiên quyết đến nghẹn lòng của kẻ ra đi vì chí nhớn. Đó là thái độ cần thiết của người con trai trong thời đại bấy giờ - thời đại cần đến những con người ra đi vì nghĩa lớn. Tống biệt hành được bắt đầu bằng những câu thơ.
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong.
Mở đầu bài thơ là một cuộc tiễn đưa đượm ý vị hiệp sĩ. Câu thơ đầu xuất hiện hình ảnh của hai nhân vật, đó là “người” và “ta”. “Người” là người ra đi, “to” là kẻ tiễn đưa, giữa hai con người đó bắt đầu mở ra một cuộc chia li. Ngày trước điểm hẹn hò của những cuộc chia xa chính là con sông, ở đây Thâm Tâm cũng lấy hình ảnh đó làm địa điểm cho kẻ ở người đi, song lần này lại có một điều khác - tác giả đưa bạn nhưng không đưa qua sông. Vì người đi không cho phép, hay chính người tiễn sợ buồn? Xưa nay chẳng có một cuộc biệt li nào mà lòng không đau, không nhớ thương, lưu luyến. Thâm Tâm và người bạn trong bài thơ cũng chẳng nằm ngoài quy luật ấy. Cái mở đầu của bài thơ mang hình ảnh liên tưỏng, đậm nét trữ tình, Đọc câu thơ gợi cho ta nhớ đến chàng dũng sĩ kinh Kha thời trước, nhưng người tiễn chàng dũng sĩ ấy lại đi qua sông và tiếng sóng mới dội lại trong lòng nỗi bâng khuâng ngậm ngùi, còn đây tác giả chỉ đứng bên này sông mà vẫn thấy được tiếng sóng đang dội lên cồn cào. Vậy không đưa qua sông mà sao lại có tiếng sóng ở trong lòng? Tiếng sóng trong lòng ở đây là tiếng sóng đang trào lên trong tâm hồn người ở lại, và người ở lại dường như cũng tháu hiểu, cũng cảm nhận được tiếng sóng trong lòng người đi. Không gian trong buổi chiều ấy lặng là, bình yên như bao buổi chiều khác, không có gì mới mẻ - một buổi chiều mà lẽ ra con người phải được sông trong cảnh êm đềm chứ không phải ngậm ngùi, tiễn tiễn, đưa đưa, để lưu luyến, để buồn và thắc thỏm. Trong một buổi chiều bình dị như vậy nhưng người đưa tiễn vẫn như thấy ánh mắt của người đi đầy ắp bóng hoàng hôn. Dù người đi có rắn rỏi đến mấy thì người tiễn yẫn nhận ra được một nét buồn vời vợi không giấu nổi của người ra đi. Người ra đi đang phải dằn vặt với bao nỗi niềm, đang phải đấu tranh để gạt bỏ mọi tình cảm riêng tư để vì chí lớn mà người đã chọn, vì lí tưởng mà người cần hướng tới. Một loạt từ “không” được sử dụng trong khổ thơ đầu vừa khẳng định lại vừa phủ định. Phủ định cái không gian, thời gian để nhằm diễn tả một điều duy nhất là tâm trạng của con người - đó là tâm trạng buồn tê tái dâng ngập cả trong lòng người đi kẻ ở. Ánh hoàng hôn ấy bao phủ trong cách nhìn của cả hai. Khổ thơ hầu hết là vần bằng tạo nên âm hưởng trầm lắng, ta có cảm giác hai người lặng lẽ đi bên nhau, trong lòng họ chan chứa bao điều nhưng chẳng ai nói với ai một lời, chỉ có ánh nhìn của họ đã trao gửi cho nhau tất cả. Hai câu hỏi tu từ “sao” để khẳng định nỗi buồn là có thực. Người ra đi cương quyết nhưng ngậm ngùi, ngang tàng mà đau xót, bề ngoài tỏ vẻ như dửng dưng nhưng thực chất bên trong lại không che giấu nổi nỗi xót xa li biệt, có như thế mới “có sóng ở trong lòng”, có “hoàng hôn trong mắt trong”. Và diều này thì chỉ có ở trong cảnh tiễn đưa người ta mới nhận ra.
Bốn câu thơ đầu nếu như chỉ đọc lướt qua một lần thì ta cứ ngỡ đó chỉ đơn thuần là tâm trạng của người tiễn, nhưng ẩn nấp phía sau chính là nỗi lòng của cả người đi. Hai tâm hồn này hòa cùng một nhịp tạo thành một nỗi buồn không dứt - nỗi buồn li biệt. Không gian đánh lừa tâm trạng con người nhưng con người vẫn vượt qua cái không gian ấy để được sông thật với chính mình, sông thật với nỗi xót đau của một cuộc chia li mà chưa biết đến bao giờ gặp lại và liệu có còn cái ngày sum họp đoàn viên ấy nữa không?
Những câu thơ tiếp theo bắt đầu thể hiện rõ thái độ quả quyết của người đi và dường như người ở lại không bỏ sót một chi tiết nhỏ nào đang diễn ra trong lòng người đi, trong ý chí của người đi.
Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng
Li khách! Li khách con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Người tiễn khẳng định “đưa người ta chỉ đưa người ấy” - người tiễn chỉ tiễn đưa duy nhát có một người, có nghĩa trong thời kì đất nước loạn lạc đâu chỉ có một người lên đường vì nghĩa lớn mà chắc chắn là ngoài người ấy ra sẽ còn nhiều người khác nữa. Điều đó thể hiện được hào khí của những người thanh niên trẻ tuổi lúc bấy giờ trên đất nước ta. Nhưng “người ấy” chính là hình ảnh điển hình cho bao hình ảnh khác, và tác giả chỉ đưa tiễn duy nhất có một người nên càng hiểu sâu sắc hơn tâm trạng của người đi. Tác giả thấy được người ấy ra đi với một thái độ lạnh lùng, dửng dưng có phần như rất tàn nhẫn.
Một giã gia đình một dửng dưng...
Câu thơ tách đôi làm hai vế, cách ngắt nhịp 4/3 làm cho giọng điệu trở nên gân guốc, rắn rỏi, đó cũng chính là giọng điệu hay bắt gặp trong ’ thế hành. Điệp từ “một” được nhắc lại hai lần càng bộc lộ rõ thêm ý chí quyết tâm cao độ. Thái độ “dứt ảo ra di” không có gì vướng bận lại phía sau, đấy là chí khí của người con trai thời chiến. Nhưng câu thơ đã khéo léo ẩn chứa một nỗi buồn, thậm chí có sự luyến lưu đằng sau sự dứt khoát đó. Cuối câu thơ xuất hiện ba dấu chấm lửng chính là những nỗi niềm không thể cất lên thành lời được của người ra di. Đằng sau cái ý chí sắt đá lạnh lùng ấy vẫn ẩn giấu một con người bằng xương bằng thịt và giàu tình cảm. Con người ấy cũng biết đau khi phải biệt li nhưng nỗi đau và cái lưu luyến đó được nén lại trong cái lửng lơ giữa chừng của câu thơ, chứa chât trong đây biết bao nhiêu là tâm trạng của người ra đi vì “chí nhớn”. Trong tình cảnh đất nước hiện giờ thì thái độ dứt khoát ây là thê hiện sự chân thành, cao quý.
Li khách! Li khách! Con đường nhỏ.
“Li khách” là hình ảnh của người ra đi trên con đường nhỏ, tiếng gọi nghe thật tha thiết của người ở lại. Sau tiếng gọi ấy là sự dứt khoát một cách tuyệt đôi của người đi.
Chí nhớn chưa về bàn tay không Thì không bao giờ nói trở lại Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

Người ra đi ngay từ lúc đầu đã xác định là ra đi vì “chí nhớn”. Lúc ra đi chưa có gì cả, chỉ là ra đi với “bàn tay không” nhưng trở về thì phải khác - nếu như ước mơ lí tưởng phấn đấu của người đi không được thực hiện thì người ra đi sẽ không bao giờ trở về nữa. Đó là một thái độ sông đẹp, một cử chỉ đẹp của người đi, của hình ảnh người con trai thời chiến: dẹp tình riêng theo đuổi chí lớn vì thế mà câu thơ đượm tính hiệp sĩ. Cái “tráng” của hình ảnh người “li khách”, thái độ cương quyết, ý chí sắt đá của li khách toát lên vẻ đẹp tâm hồn, chí khí hào hùng của người trai thời loạn nhưng đồng thời cái “bi” cũng được bộc lộ từ câu thơ thể hiện ý chí đó vì người đi không hẹn ngày trở lại bởi chẳng biết “chí nhớn” có về với người đi không, và nhiều lúc có được “chí nhớn” nhưng liệu người ra đi có còn để trở về nữa hay không? Người ra đi cắt đứt mọi tình cảm với người thân, với quê hương mang đầy kỷ niệm để lên đường. Con đường tương lai mịt mờ, gập gềnh và đầy gian khó nhưng sẽ thực hiện vì danh dự, vì lí tưởng, ơ đây lẩn khuất đâu đó trong ý thơ đã có sự giằng co giữa một bên là tình cảm, một bên là danh dự song cuối cùng người bạn của nhà thơ vẫn cương quyết lên đường.
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Câu thơ tưởng như là đáng giận mà lại đáng phục, một lần nữa người ra đi thế’ hiện thái độ dứt khoát với người thân. Hình ảnh “mẹ già” hiện lên thật đáng thương, tội nghiệp nhưng cũng đáng tự hào biết bao. Người đi gạt bỏ tình riêng tư - kể cả tình mẫu tử thiêng liêng cao quý để lên đường, và sẽ không trở về nếu việc lớn không thành tưởng như là nhẫn tâm song điều đáng tự hào của người mẹ già là đã có một đứa con sống có lí tưởng, ra đi vì sự nghiệp lớn. “Ba năm” là khoảng thời gian ước lệ. Con sô' ba thường là con số được thơ văn xưa nhắc tới nhiều, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã từng viết.
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.
Đó là con sô để diễn tả một thời gian dài, ba năm ở đây cũng có thể là ba năm mà cũng có thể là nhiều hơn nữa. Cho dù thời gian có dài bao nhiêu mà con chưa lập được công lớn thì cũng xin mẹ đừng đợi chờ chỉ thêm vô vọng mà thôi.
Cái bi cái tráng quyện chặt vào nhau, tạo nên sức hấp dẫn kì lạ của bài thơ. Cái bi là để nói lên hiện thực của cuộc chia li, cái tráng là để ngợi ca, làm dịu đi cái bi, để bài hành vẫn giữ được phong thái rắn rỏi, gán guốc của nó. Tất cả thể hiện sự quyết tâm và sâu xa hơn nữa là biểu hiện niềm tin vào một ngày mai tươi sáng của người đi - có như vậy người đi mới có được cái hăng hái của một chiến sĩ xung phong. Trong cái hăng hái ấy nỗi buồn đã len lỏi thârn vào tận đáy lòng sâu kín.
Ta biết người buồn chiêu hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt.
Một chị hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trùi dòng lệ sót.
Người ra đi bề ngoài lạnh lùng, dửng dưng nhưng thực chất bên trong lại đầy lưu luyến. Nỗi buồn dâng ngập lòng người đi mà chỉ có người tiễn nhận ra điều đó sâu sắc nhất. “Ta biết” tức là nhà thơ biết người ra đi đã buồn từ “chiều hôm trước” - người ra đi đã kịp buồn trước khi cuộc chia li diễn ra. Có lẽ cái buồn ấy giúp cho người đi có một thái độ cứng rắn khi chia tay ở buổi chiều sau chăng? Buồn mà cứng rắn mới lạ - buồn vì phải biệt li gia đình, còn cứng rắn là thái độ của người con trai có chí lớn. Sen trong mùa hạ cũng đã nở trước lúc người ra đi lên đường. Thiên nhiên đẹp và quyến rũ như vậy cũng không giữ nổi bước chân người ra đi. Hai chị đã khóc hết nước mắt rồi mà “em trai” vẫn không ở lại. Chỉ còn dòng lệ “sót” - dòng lệ sau cùng dể khuyên nhủ nhưng tất cả đều không thể làm em mình thay đổi ý định được. Cả đoạn thơ dùng nhiều thanh trắc “ta biết”, “nở nốt”, “khuyên nốt”, “lệ sót” nhằm biểu hiện sự giằng co đau khổ, trong tâm trạng người “li khách”. Điệu thơ gấp gáp, rắn rỏi, lời thơ gắt nhằm nhấn mạnh ý chí, quyết tâm ra đi của “li khách”.
Nỗi buồn trong lòng người ra đi âm thầm chảy từ khổ thơ này sang khổ thợ khác thành một nỗi niềm miên man.
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Giời chưa mùa thu tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay.
“Ta biết” - một lần nữa người tiễn thấu hiểu được nỗi buồn tràn dâng trong lòng người đi. Buồn từ chiều hôm trước kéo dài cho tới sáng hôm sau vẫn chưa dứt, đó là nỗi buồn dai dẳng không thể nào dứt ra được trong tâm trạng người đi. Người ra đi giữa độ giao thoa của đất trời từ hạ sang thu, sen đã vội vàng nở nốt trong mùa hạ, mùa thu chưa bước sang nên khí trời còn tươi tắn, không mang màu ủ rũ, có như thế mới có một buổi chiều “không thắm không vàng vọt” để tiễn đưa chứ. Trong khung cảnh 'đẹp và có phần như thơ mộng đó xuất hiện “đôi mắt biếc” đen tròn của người “em nhỏ” làm cho cuộc tiễn đưa ý vị thêm, níu kéo thêm. “Em nhỏ” ồ đây không phải là đứa em bé nhỏ dại khờ mà em nhỏ chính là hình ảnh của người con gái đang rụt rè trao chiếc khăn cho người ra đi. Ngày trước người ta thường gọi người yêu là em gái hay em nhỏ - một cách xưng hô thân mật, gần gũi không cầu kì câu nệ. Bao nhiêu tình cảm thương nhớ được trao trọn trong chiếc khăn tay. Đó là kỉ vật để biểu hiện lời ước hẹn, lời thề thủy chung của người ở lại đợi chờ cũng như người đi xa. Có lẽ trong giây phút chia li ấy ngoài hai nhân vật chính trong câu chuyện tình kia thì chỉ có nhà thơ mới là người thây được cái lớn trong cái nhỏ, cái có trong cái không, cái trừu tượng trong cái cụ thể. Người em gái nhỏ xuâ't hiện chiếc khăn đầy tình cảm cũng vẫn không níu giữ được bước chân của người ra đi càng thể hiện một thái độ dứt khoát của người đi. Người đi dứt áo lên đường bỏ lại sau lưng tất cả mọi thứ. Người tiễn dẫu đã biết được người đi có một ý chí quyết tâm cao dộ nhưng khi người đi thật vẫn thảng thốt giật mình như không muôn tin đó là sự thực.
Người đi? ừ nhỉ, người đi thực:
Người tiễn tự đặt ra câu hỏi rồi lại tự trả lời với chính mình, tự khẳng định điều mình đang nghi hoặc. “Người đi?” - có tính chất nghi ngờ, “ừ nhỉ” - thật rồi, “người đi thực” - khẳng định điều đó là chắc chắn rồi. Người tiễn hiểu bạn mình rất sâu sắc nhưng vẫn bị bất ngờ trước thái độ quá cứng rắn của người đi. Cứ tưởng bao nhiêu điều níu kéo sẽ làm chùn bước chân của “li khách” vậy mà vì “chí nhớn” người ra đi đã gạt bỏ tất cả. Những câu thơ cuối cùng là những câu thơ thể hiện mạnh mẽ nhất, dứt khoát nhất sự cương quyết của người đi.
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.
Đoạn thơ gợi nên nhiều cách hiểu. Đây là lời của li khách với thái độ của li khách, hay lời của li khách với thái độ của người thân? Mẹ hãy coi con như chiếc lá, chị hãy coi em như hạt bụi, em hãy xem anh như hơi rượu, để lòng mọi người thanh thản cho người ra đi cất bước lên đường, hay là người ra đi thà coi mẹ như chiếc lá, thà coi chị như hạt bụi, coi em như hơi rượu để dứt bỏ mọi thứ mà lên đường? Gả hai giả thiết đều có lí. Nhưng xem ra giả thiết thứ hai lôgic hơn. Vì người đi quyết tâm ra đi nên phải trực tiếp bộc lộ thái độ của mình, và đây cũng là ý nghĩa của người tiễn muôn nhìn thấy một trượng phu. Tưởng như người đi tàn nhẫn quá, thanh thản quá, nhưng thực chất trong lòng lại chứa đựng một nỗi day dứt, xót xa xé ruột vì phải chia tay với người thân. “Cuộc tiễn đưa diễn ra đầy kịch tính, kịch tính trong tình cảm, trong mâu thuẫn giằng xé giữa chí lớn, tình riêng. Một cuộc tiễn đưa hàm chứa một cuộc tiễn đưa, hay nói cách khác, hai cuộc tiễn đưa dồn nén, thử thách trong một cuộc tiễn đưa. Nhưng cuối cùng chí lớn đã thắng” (Trần Đình Sử).
Tống biệt hành là bài thơ ca ngợi chí khí hào hùng của người trai thời chiến đặt lí tưdng lên trên tình cảm riêng tư. Với giọng thơ trầm hùng, bi tráng của thể “hành”, Thâm Tâm đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh hào hùng của người con trai thời chiến. Giọng thơ bâng khuâng mà rắn rỏi, quyết liệt nhưng xót xa, dùng nhiều điệp từ, điệp câu làm tăng tính nhạc điệu và hàm súc cho bài thơ. Đồng thời qua đó thể hiện một tình bạn thắm thiết, tình yêu nước kín đáo của Thâm Tâm bộc lộ qua sự ngưỡng vọng đối với người bạn lên đường vì nghĩa lớn.
Nguồn:
- Phân tích khổ 2 bài thơ Tràng Giang của Huy Cận (14/12) Nguồn:
- Soạn bài Thao tác lập luận bác bỏ (14/12) Nguồn:
- Soạn bài Vội Vàng của Xuân Diệu nâng cao (14/12) Nguồn:
- Phân tích bài thơ Tôi yêu em lớp 11 (20/10) Nguồn:
- Bức tranh quê trong bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ (20/10) Nguồn:


