Phân tích bài thơ Thề non nước của Tản Đà

Thứ sáu , 24/03/2017, 22:11 GMT+7
Phân tích bài thơ Thề non nước. Nói đến Tản Đà là người ta nghĩ ngay đến một hồn thơ mới lạ trong thi ca Việt Nam. Thơ ông vừa có cái của ngày hôm qua, vừa có cái của ngày hôm nay, vừa phảng phất gió hương của quá khứ vừa ấm áp hơi thở của thơ ca hiện đại.
Ông chính là người đầu tiên đưa vào thơ ca những mầm mống mới. Thơ ông phóng túng nhưng tràn đầy cảm xúc, có lúc mạnh mẽ, có lúc da diết nhớ mong, có lúc chan chứa nghĩa tình sâu nặng. Và Thề non nước chính là một bài thơ như vậy.
 
Bài thơ toát lên tình yêu thương chung thủy gắn bó sâu nặng giữa non và nước. Đồng thời qua hình tượng non nước, Tản Đà muốn gửi gắm tấm lòng yêu nước kín đáo của mình giữa những ngày đất nước đang lâm nguy. Mở đầu bài thơ là lời thề thủy chung, son sắt.
 
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non.
 
Hình tượng non và nước xuất hiện ngay từ lời giới thiệu đầu tiên. Nước non ở đây cũng có thể là hình tượng thiên nhiên, là Tổ quốc giang san keo sơn, gắn bó, dính kết lại với nhau đã bao đời. Nhưng vế sau của câu thơ lại xuất hiện lời thề mà lại “nặng” một lời thề, thì có lẽ đã nói chuyện của con người rồi. Vì chỉ có con người mới thề thốt được. Vậy nên lời thề này mới được hiểu là lời thề của tình yêu đôi lứa chắc cũng không có gì là lạ, mà ngược lại còn có phần như hợp lí, có lí. Sự xuất hiện của từ “nặng” làm cho câu thơ như trĩu xuống. Trong tình yêu, lời thề là một điều cao cả thiêng liêng. Có gắn bó nghĩa tình thắm thiết với nhau mới có thể thề thốt được. Đây lại không phải là lời thề bình thường mà là một lời thề mang nặng trách nhiệm của cả kẻ ở người đi — trách nhiệm phải bảo vệ và gìn giữ để cho lời thề ấy sâu nặng mãi.
 
Sự chia li đã bắt đầu xuâ't hiện trong câu thơ thứ hai. Nếu như hình tượng non nước trong câu thơ thứ nhất gắn kết đứng liền bên nhau ngay đầu câu, thì đến đây đã bị chia cắt ra thành hai nửa đầu và cuối - mở ra một không gian mênh mang đến tận cùng. Cách sắp xếp chữ của tác giả đã lột tả được sự xa cách muôn trùng của non và nước “Nước đi đi mãi không về cùng non”. Câu thơ với điệp từ, sử dụng vần bằng là chủ yếu, gợi một thời gian dài vời vợi. Lời thề bị thử thách. Sự thử thách ấy đặt ra cho kẻ ở, người đi: liệu người đi có còn quay về nơi hẹn cũ, và liệu kẻ ở có vững tin đợi chờ dù mòn mỏi, dù tháng năm?
 
Nhớ lời nguyện nước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng không.
 
Cảnh ngộ của non ở đây thật đáng thương mà cũng thật đáng quý biết bao. Những ngày nước đi xa thì non vẫn giữ nguyên lời hẹn thề chung thủy ngày nào và cũng chính vì cái lời thề hẹn ấy mà non đã phải hứng chịu bao cảnh ngộ trong mòn mỏi đợi chờ. Vì nước đi chưa về nên non còn đứng không, non đứng lì ra đấy, cô đơn, trơ trọi một mình giữa một không gian rộng lớn. Sự cô đơn đến tột cùng bủa vây lấy hình ảnh của non. “Đi - chưa lại - còn - đứng không” những từ ngữ này như muốn nhấn thêm sự chung thủy một cách tuyệt đối của non. Nêu như chừng nào nước chưa về thì chừng ấy non sẽ còn mãi mãi đứng trông, đứng đến bao giờ nước trở về với non mới thôi, lời thề chính vì lẽ đó mà thiêng liêng hẳn lên. “Nước đi chưa lại non còn đứng không”, câu thơ vừa tô đậm sự cách biệt vừa khẳng định sự đợi chờ. Non nhớ nước mà cao hơn hết là non nhớ lời thề. “Nhớ lời nguyện nước thề non” ở đây chưa hẳn đã là sự nhớ nhung mà là sự ghi nhớ đinh ninh lời thề hôm nào và bổn phận của mình là phải giữ trọn lời thề đó.
 
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời Tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
 
Nỗi nhớ nhung đến đây đã bắt đầu tràn ngập trong tâm trí của non. Ngày qua tháng lại non hết ngóng rồi lại trông, một nỗi chờ đợi đau đáu dai dẳng về một phương trời vậy mà nước vẫn mờ mịt không có tin tức. “Cao”, “ngóng”, “trông” là những từ biểu đạt sự đợi chờ đã quá lâu rồi. Những câu thơ tiếp theo là hình tượng dung nhan của non héo rũ dần theo ngày tháng cùng với nỗi đợi chờ mòn mỏi và dường như là vô vọng. “Suối khô dòng lệ” - chờ đợi, mong ngóng, đã khóc hết nước mắt, lệ của non đã khô rồi, không còn nước mắt để khóc nữa vậy mà nước vẫn biền biệt xa xăm. Non càng mong nhớ, chờ đợi thì càng tàn tạ, càng tiều tụy. Hình tượng non xuất hiện ở đây mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ đẹp nhưng cái vẻ đẹp ấy đang ngả sang màu vàng vọt héo hon bởi sự tàn phá của thời gian, bởi nỗi buồn chờ đợi. Nhan sắc giờ đây nó tương phản với thời trẻ trung xinh đẹp ngày xưa. Ngày xưa “xương mai”, “tóc mây”, bây giờ những thứ ấy đã xanh xao, gầy gò, đã chở đầy tuyết sương.
 
 
Cả đoạn thơ gợi cho ta liên tưởng đến hình ảnh của người vợ chờ chồng bên hòn vọng phu, chờ đến lúc hóa đá cả thân mình. “Bóng tà dương” xuất hiện trong bài đâu phải là bóng của một buổi chiều trong một ngày mà chính là cái bóng của cả đời người. Sự tàn phá nhan sắc ở đây đâu chỉ là vì tuổi tác mà chính là sự đợi chờ trong vô vọng.
 
Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước nước mà quên non.
 
Có thật là non tuổi vẫn chưa già không? Sự đợi chờ mòn mỏi, tháng năm lần lượt trôi qua non không già làm sao được! Cái già về thể xác thì có gì là đáng nói, cái già về tâm hồn mới là điều đáng sợ. “Non cao tuổi vẫn chưa già”, cách ngắt nhịp 3/3 khẳng định tấm lòng vững bền của non. Chưa già chính là sự đợi chờ chưa già, đợi thế chứ đợi nữa thì non cũng vẫn sẵn lòng, vì trong non chỉ có nước, chỉ có lời thề làm lẽ sống, vậy thì cớ sao non lại không chờ đợi được. 'Tình yêu thủy chung làm cho non biết chiến đấu vầ chiến thắng tất cả, dù gian khổ, dù đợi chờ, kể cả nhiều lúc tưởng như là vô vọng.
 
Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
 
Cách ngắt nhịp chia đôi câu thơ thành hai vế bằng nhau, tuy thế ý nghĩa biểu cảm lại không giống nhau. Đây là câu nghi vấn hay khẳng định? Cả hai đều có thể. Nếu như là ý khẳng định thì nghĩa là non thì nhớ nước, vậy nước quên non sao được. Nếu hiểu theo nghĩa nghi ngại thì non nhớ nước thế mà nước lại quên non. Cái tâm trạng nghi ngờ trong tình yêu cũng là một điều dễ hiểu vì sự đợi chờ đã quá lâu rồi. Sự đợi chờ ấy cho phép người ở lại được hoài nghi, giận dỗi. Nhưng với non, non đã một lòng khẳng định nếu mà nước có quên non, non vẫn đợi chờ dù sông cạn đá mòn, dù lòng người đi thay đổi. Đó chính là tình cảm thủy chung của non đối với nước. Đó là sự sắc son tuyệt đối vững bền của tình yêu.
 
Để đáp lại sự âu lo mòn mỏi của non, nước đã an ủi non về một tương lai hội ngộ.
 
Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
 
Nước cũng nhắc lại lời thề nhưng không nhắc trực tiếp mà biểu đạt bằng một câu ca dao quen thuộc để khẳng định sự bền vững của lội thễ. “Non cao đã biết hay chưa”, ta có cảm giác rằng nước dù ở xa xôi nghìn trùng nhưng cũng hiểu được sự chờ dợi mong ngóng của non nên mới cất cao giọng hỏi đã biết hay chưa”. Vậv thì biết ở đây là biết gì? Biết rằng nước luôn nghĩ đến non và chắc chắn sẽ trở về với non. Nước hiểu được sự thắc thỏm của non là liệu rồi đây mình chờ đợi như vậy nhưng nước có trở về nữa hay không! Non chỉ chờ nghe câu trả lời đó vì vậy nước đã khẳng định là sẽ trở về, nhất định sẽ trở về. Dù nước có đi đâu rồi nước cũng sẽ trở về nguồn, trở về cái chỗ hẹn hò đầu tiên, nước sẽ trở về với non. “Nước ra đi bể lại mưa về nguồn” câu thơ vừa khẳng định một quy luật tất yếu của tự nhiên “ra bể - về nguồn”, vừa đánh tan cái nghi ngờ trong non.
 
Hiểu được sự đợi chờ, ngóng trông của non, sự hi sinh cao cả của non, nước muốn mang lại niềm tin cho non bằng một lời an ủi, nhắn gửi về ngày mai sum họp. Cuộc hội ngộ sum vầy không chỉ còn mà còn luôn, còn mãi mãi. Nước thực sự lo lắng cho non, nước động viên non “chớ có buồn làm chi”. Nước vỗ về non đừng buồn, đừng nghĩ ngợi mà hanh hao tiều tụy, non hãy tin nước, nước đi rồi nước lại về với non, bên non suốt đời.
 
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
 
Lại một lần nữa tác giả khẳng định thêm tấm lòng của nước đối với non, nước khuvên nhủ non không buồn phiền khổ lụy. Nước tuy đi xa, tuy không ở gần non nhưng non hãy cứ vui cười vì ngàn dâu luôn xanh tốt, luôn có nước tuôn vào sức sông.
 
Và cuối cùng bài thơ được kết thúc giữa một lời đồng ca vang vọng của non - nước.
 
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước chưa nguôi lời thề.
 
Tuy nước chưa trở về nhưng nước đã làm ấm lên niềm tin và sự chờ đợi của non. Sự chờ đợi của non đã được đáp lại bằng tình cảm nồng nàn thắm thiết. Buổi đầu nhớ nước, non đã mang tâm trạng côi cút, vô vọng nay thì niềm tin đã được khẳng định vững bền. Non và nước cùng nhau giữ trọn lời thề, không chỉ là lời thề trăm năm của một đôi trai gái nữa mà là lời thề nghìn năm tức đã có hình tượng đất nước, Tổ quốc xen vào đâv. Đất nước sẽ gắn bó keo sơn khắng khít như tình thủy chung son sắt của nước non đôi với nhau.
 
Câu thơ cuối khép lại cả bài thơ bằng hình tượng dính kết giữa non và nước. Với nghệ thuật điệp từ “non non, nước nước” đã tạo nên sự vĩnh hằng, mãi mãi không thể tách rời của nước - non.
 
Nếu như bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh “nước non nặng một lời thề”, lời thề chỉ nặng, đòi hỏi phải có trách nhiệm, phải được thử thách, thì kết thúc bài thơ những thử thách ấy đã được thực hiện, được giữ gìn trọn vẹn “non non nước nước chưa nguôi lời thề”. Dù thời gian, dù khoảng cách cũng không thể nào chia lìa được non và nước nữa. Tình yêu lứa đôi ở đây đã được chuyển hóa và nâng lên thành lời thề với Tổ quốc, giang sơn.
 
Tản Đà đã viết Thề non nước với bao nỗi niềm xúc cảm, trong đó có ngụ chút tình cảm của người dân mất nước. Với thể thơ lục bát giàu nhạc điệu, ngôn ngữ giản dị, giọng thơ ngọt ngào mà sâu lắng tác giả xây dựng nên một mối tình tuyệt đẹp giữa non và nước. Sự thủy chung, bền bỉ của tình yêu ấy cũng chính là tấm lòng son sắt của tác giả đối với đất nước.
Nguồn:
bai tho the non nuoc