Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
Phân tích bài thơ Đồng chí. “Đồng chí ở đây là tình đồng đội, không có đồng đội tôi không thể nào làm tròn được trách nhiệm, không có đồng đội có thể tôi cũng chết lâu rồi.”
Đó là lời tâm sự mộc mạc mà chân thành, chứa chan tình đồng đội cá nước của nhà thơ Chính Hữu. Và những tình cảm đó đã được thể hiện rõ nét trong bài Đồng chí.
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Những người lính ra đi từ làng quê nghèo khổ, cỗi cằn. Họ là hiện thân của con người suốt một đời chân lấm tay bùn. Họ là những cùng cảnh ngộ. Quê hương “anh” đồng chiêm nước trũng thì làng của tôi cũng chẳng khá hơn, cũng là một vùng cằn khô sỏi đá khó làm ăn, trồng trọt, gieo cấy. Vậy nên nơi anh ra đi và nơi tôi ra đi thật giống nhau. Họ đều đến từ những vùng đất lam lũ, nhọc nhằn. Có lẽ chính điều đó đã đưa họ xích lại gần nhau hơn. Giữa họ đã xuất hiện tình cảm của người cùng giai cấp.
Anh với tôi
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bển đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Họ là những con người cùng cảnh ngộ nghèo khổ nhưng họ lại đến từ những miền đất xa xôi, từ những phương trời khác lạ nhau. Họ đã ra di vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, vì giang sơn gấm vóc cần đến bàn tay giữ gìn của họ. Họ có chung một lí tưởng cách mạng cao đẹp. Chính điều đó đã thắt chặt tình đồng chí, anh em giữa những con người lạ xa vôn không hề quen biết nhau ấy. “Anh” với “tôi” bỗng trở nên thân thiết, gắn bó trên một chiên hào diệt giặc, trở thành đồng đội cùng chia ngọt xẻ bùi, cùng “tâm đầu ý hợp”. Câu thơ “súng bên súng đầu sát bển đầu” đã diễn tả được sức mạnh của sự đoàn kết, luôn sát cánh bên nhau của những con người cùng chí hướng. Họ không chỉ là những con người cùng chung lí tưởng mà còn cùng chung những suy nghĩ, ước mơ, khát vọng. Họ chia xẻ cho nhau những thiếu thôn, vất vả để được gần nhau hơn.
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Phút giây gặp gỡ đầu tiên chắc rằng giữa họ cũng có những bỡ ngỡ, ngại ngùng, thế rồi sau vài ba câu chuyện tâm tình, họ đã là đồng đội tốt của nhau. Tình đồng đội ấy được đẩy lên cao hơn, gắn bó và thiêng liêng hơn khi họ biết giữa họ có bao nhiêu sự hòa hợp, đồng cảnh, khi họ cùng nhau ngủ chung một chiếc giường, đắp chung một tấm chăn vá rách giữa những ngày đông giá rét. Dường như cái rét đã làm cho họ xích lại gần nhau hơn, họ cần nhau hơn. Chính tấm chăn đã ủ ấm tình cảm trong tâm hồn của những con người xa nhà, xa quê hương. Trong phút giây “chung chăn” ấy, họ trỏ nên gắn bó ruột thịt, trở thành đôi bạn tâm giao tri kỉ. Họ trở thành đồng chí của nhau. Hơi ấm từ tình đồng chí tỏa ra xua tan bao lạnh lẽo của mùa đông băng giá.

“Đồng chí” Câu thơ ngắt riêng ra đứng thành một dòng đĩnh đạc tạo nên một thế dứng vững vàng chắc chắn. Câu thơ gửi gắm bao ý tưởng, lắng đọng bao cảm xúc.
Người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng ra chiến trường vẫn mơ về những dáng Kiều thơm giữa phô" phường Hà Nội. Đó là cái nhớ mang chút lãng mạn, bay bổng của những chàng trai hào hoa thanh lịch. Người lính trong Đồng chí của Chính Hữu ra đi mang theo cả nỗi nhớ và nỗi lo về giếng nước gốc đa, về ruộng vườn nhà cửa. Nỗi nhớ của họ không bay bổng diệu kì mà chân chất đằm sâu. Đó là nỗi nhớ của những người “nông dân mặc áo lính”.
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Họ ra đi, gác lại bao bộn bề của cuộc sông đời thường còn nhọc nhằn vất vả. Căn nhà chưa vững chãi nhưng lòng người ra đi vẫn kiên quyết. “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”, “mặc kệ” không phải là bỏ mặc, phó thác, vô trách nhiệm mà chính là để thể hiện thái độ dứt khoát trước tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Họ đã biết gạt đi bao tất cả riêng tư của cuộc sống để đặt lợi ích cộng đồng, đất nước lên trên hết. Tinh thần ấy thật gần gũi với những người lính trong Nhớ của Nguyên Hồng, họ ra đi để lại cuộc sông sau lưng còn nhiều lo toan, vất vả. Và gánh nặng ấy được đổ dồn lên đôi vai bé nhỏ của những người vợ đêm đêm “mòn chân bển cối gạo canh khuya”. Ta cũng bắt gặp hình ảnh cao đẹp của người phụ nữ đảm việc nhà, giỏi việc nước trong Cô gái Bắc Giang của Tố Hữu.
Em là con gái Bắc Giang
Rét thì mặc rét nước làng em lo
Nhà em phơi lúa chưa khô
Khoai chửa vào bò sắn thái chưa xong
Nhà em con bế con bồng
Em củng theo chồng đi phá đường quan.
Người lính trong Đồng chí ra đi với thái độ kiên quyết, dứt khoát như vậy không phải trong lòng họ không mảy may có một bịn rịn, luyến lưu. Thực chất trong trái tim họ mang theo biết bao nỗi nhớ về làng quê yêu dấu. Họ hiểu được gian nhà dường như trơ trọi hơn, hoang vắng hơn khi thiếu đi bóng hình của họ. Họ nhớ xiết bao những giếng nước gốc đa và chắc rằng nơi ấy đã có những đêm trăng hò hẹn đầy kỷ niệm. Họ ra đi để giữ ĩấy mảnh đất, gian nhà, ruộng vườn, giếng nước, gốc đa, giữ lấy những kỷ niệm êm đềm vì thế mà “giếng nước, gốc đa” quê hương dường như đêm ngày cũng thao thức đợi mong ngày họ trở về: “Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”. Người ra đi yêu ruộng vườn nguồn cội, yêu nắng gió nơi nước mặn đồng chua, nơi đất cằn sỏi đá, “người ở lại” (quê hương) cũng biết chờ đợi giữ gìn nên nỗi nhớ của người nơi tiền tuyến không hề làm giảm đi nhiệt tình trong cuộc sông, nhiệt tình cách mạng.
Ngoài nỗi lo, nỗi nhớ về hậu phương, người lính còn phải đương đầu với bao khó khăn của cuộc sống chiến đâu.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Tình “đồng chí” lại được khắc họa rõ nét hơn, sâu sắc hơn khi họ chia nhau không chỉ từng miếng cơm, manh áo mà còn chia nhau cả những cơn sốt rét rừng. Anh và tôi chia cho nhau sự sông và chia cho nhau cả cái chết, vì thực thế bệnh tật, khó khăn dã cướp bao sinh mệnh của người lính. Trong Tây Tiến những cơn sốt rét khủng khiếp nhiều lúc đã làm cho nét đẹp hào hoa của những chàng trai Hà Nội trở nên tiều tụy, dữ dằn, không thể mọc được tóc. Khốc liệt hơn là đã nhiều người phải gục xuống giữa chặng đường hành quân vì thiên nhiên khắc nghiệt, vì thiếu thốn, bệnh tật: “Anh bạn giãi dầu không bước nữa, Gục trên súng mũ bỏ quên đời”. Chính gian khổ đã dệt nên kỷ niệm, đã làm cho tình đồng đội, đồng chí ngày một đậm đà, sâu sắc.
Áo anh rách vai
Quẩn tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Bằng bút pháp hiện thực, Chính Hữu đã miêu tả hình ảnh của người lính không chút màu mè, tô vẽ. “Áo anh rách vai, Quần tôi có vài mảnh vá”, câu thơ được tác giả kết câu theo kiểu sóng đôi vừa tương đồng vừa bổ sung cho nhau. Họ nhìn những thiếu thôn của đời lính bằng cái nhìn tinh nghịch, tếu táo, hài hước và không giấu nổi niềm tin tưởng lạc quan.
Dẫu “áo rách vai”, dẫu “quần có vài mảnh vá”, dẫu “chân không giày” song họ vẫn cười - tiếng cười của niềm vêu đời, xóa đi bao giá rét mùa đông. Giản dị mà xúc động nhất đó là hình ảnh “thương nhau tay nắm lấy hàn tay”. Cái nắm tay ấm áp tình người, cái nắm tay thân ái của tình đồng đội. Họ nắm tay ấm áp tình người. Họ nắm tay nhau để động viên, an ủi, để truyền sức mạnh cho nhau, để cùng nhau vượt qua bao khó khăn gian khổ, để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đấy chính là biểu hiện cao nhất của tình đồng chí, của sự đoàn kết, đồng lòng.
Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh bất ngờ, thú vị.
Đèm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh hên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Hình ảnh cuối cùng của bài thơ đã vẽ lên một bức họa tuyệt đẹp về tình đồng đội gắn liền với ước mơ, khát vọng, mục đích cháy bỏng của họ. Bức tranh ấy gợi không gian, thời gian, gợi cả tình người tri kỉ. Trong đêm khuya giữa núi rừng sương muôi, lạnh giá, dôi bạn chiến đấu đứng bên nhau với một tư thế sẵn sàng “chờ giặc tới” đã tạo nên một nét vẽ độc đáo của bức tranh. Song nét vẽ có thần hơn cả đó chính là hình ảnh “đầu súng trăng treo” - một hình ảnh vừa thực vừa lãng mạn, tượng trưng. Nó thực là bởi trong đêm trăng sáng, ở tư thế chờ giặc, đứng xa nhìn lại ta như thấy trăng treo đầu mũi sung. Nó lãng mạn là bởi trong giờ khắc hiểm nguy, người lính vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của ánh trăng. Trăng treo đầu súng là mộkliên tưởng độc đáo của sự kết hợp hai hình ảnh trong thê đôi lập. Súng là biểu tượng của chiến tranh, trăng là biểu tượng của hòa bình. Súng gợi sự lạnh lùng, chết chóc, trăng gợi sự mềm mại nên thơ, gợi sự sông. Hai sự vật tương phản nhưng lại thông nhât. Người lính cầm súng để bảo vệ ánh trăng, bảo vệ bầu trời, bảo vệ cuộc sông hòa bình, vì vậy sự kết hợp này là một sự thông báo hàm ẩn đôi với người đọc về vẻ đẹp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, giữa gần và xa, giữa chiến sĩ và thi sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Họ dứng bên nhau với một mục đích, lí tưỏng, khát vọng chung - khát vọng hòa bình.
Với bút pháp hiện thực, Chính Hữu dã vẽ nên hình tượng của người lính chân chất, mộc mạc, giản dị với những suy nghĩ và hình bóng của họ giữa cuộc đời thường. Bài thơ ra đời từ trong cuộc kháng chiến chông Pháp mà đến nay vẫn làm xúc động lòng người. Bài thơ Đồng chí đã được phổ nhạc, và mỗi lần bài hát cất lên người ta không khỏi bồi hồi nhớ về một thời gian lao vất vả mà anh hùng của dân tộc, một thời đã dệt nên tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó, đẹp đẽ xiết bao.
Nguồn:
- Dàn ý cảm nhận vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương cho ngữ văn lớp 9 (03/11) Nguồn:
- Dàn ý cảm nhận về cái chết của Vũ Nương và nguyên nhân sâu xa gây bi kịch cho vũ nương (03/11) Nguồn:
- Dàn ý chi tiết cái bóng trong chuyện người con gái Nam Xương (03/11) Nguồn:
- Phân tích đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí (09/04) Nguồn:
- Phân tích cảm nhận của em về Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (04/04) Nguồn:


