Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử

Thứ bảy , 25/03/2017, 10:36 GMT+7
Đây thôn Vĩ Dạ là một cuộc trở về bằng tâm tưởng của Hàn Mặc Tử. Qua bức tranh tâm cảnh, nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và con người xứ Huế với những yếu tô vừa thực vừa mộng. Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương và con người của tác giả.
Từ nỗi nhớ đậm sâu, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh quê hương trong sáng, đậm màu sắc dân tộc ngay ỏ những câu thơ đầu.
 
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
 
Bài thơ được mở đầu bằng một lời mời gọi tha thiết của cô gái xứ Huế nơi làng quê Vĩ Đạ, nhưng ẩn đằng sau lời gọi mời ấy là sự trách móc nhẹ nhàng, kín đáo pha chút tình tứ của một lời trách yêu. “Sao anh không về” có lẽ lâu lắm rồi người ra đi không quay trở lại thì người ở quê nhà mới buông một lời trách cứ như vậy. Có lẽ người ở lại cũng đã đợi chờ người phương xa nhiều lắm, có đợi chờ thì mới biết là lâu, có lâu thì mới trách, và có thương thì mới giận hờn. Chắc là cỏ gái ấy và người xa quê tất phải có một môi thâm tình khắng khít nào đấy thì mới có thể nói như vậy được. Dù đó là lời mời gọi thiết tha, hay lời trách móc nhẹ nhàng thì cùng vẫn là lời của em, mà đã là lời của em thì tất nhiên là phải đậm tình của em rồi và chìm khuất đằng sau ấy có cả tình của anh nữa. Đấy là lời bộc bạch chân tình đằm thắm đượm một tình cảm mộc mạc mà chân thành, mà sâu sắc.
 
Làng quê Vĩ Dạ nằm ngay trên bờ sông Hương, nổi tiếng bởi những vườn cây trái xanh tươi bốn mùa. Làng quê đẹp đẽ và thơ mộng ấy chính là cái cớ để cô gái mời chàng trai về thăm, thăm quê hay chính là thăm người? Chắc rằng là cả hai vì cảnh xứ Huế thì hữu tình mà con người lại hồn hậu, duyên dáng. Lời mời của cô gái cũng thật là kín đáo, vì cô chỉ bảo rằng “anh” về đê ngắm cảnh thiên nhiên thôi - cảnh đây trong trẻo, thơ mộng mà thắm đẫm tình người.
 
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
 
Thiên nhiên hiện lên qua mấy câu thơ mà ta ngỡ đó như một bức tranh toàn cảnh về vẻ đẹp của cảnh Huê và cả con người Huế nữa. Hình ảnh “hàng cau” có lẽ cũng mang nhiều dụng ý của tác giả. Thường những khu vườn ở quê hương miền Trung hầu như lúc nào cũng không thể thiếu bóng dáng của những hàng cau thẳng tắp, nhưng sao trong vườn ấy có biết bao nhiêu hoa lá mà tác giả lại chỉ chọn hàng cau để nói đầu. Vậy hàng cau ở đây liệu có dính dáng gì đến cái duyên của lứa đôi chăng? Tất cả đều có thể lắm chứ! “Nắng mới lên” là cái nắng của một buổi bình minh đẹp trời, cái nắng trinh nguyên ban đầu, cái nắng làm tan đi những giọt sương đọng trên cành lá để đón chào một ngày mới bắt đầu. Mọi thứ ở buổi đầu đều mới, đều trinh nguyên, đều đẹp. Nắng buổi sớm không quá nóng để làm cho lòng con người gay gắt, không quá lạnh dể con người ta rét buốt, cái nắng buổi sớm luôn dịu dàng và quyến rũ. Nắng ngập không gian tràn lên những chiếc lá còn đẫm giọt sương đêm. Vườn xứ Huế được bao trùm bởi nắng mới trong sáng, tốt tươi, đầy nhựa sống. Tất cả đều tinh khiết, rực rỡ và đang vận động.
 
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
 
Lời thơ hồn nhiên như một tiếng reo ca “vườn ai mướt quá", cảnh đẹp đến nỗi làm tác giả cũng sững sờ. Cảnh sắc tươi đẹp vẫn là cảm giác bao trùm đối với thi nhân. Cho dù đây là một bức tranh tâm cảnh (tác giả chỉ hình dung qua tầm trí của mình chứ lúc này ông không ở quê) nhưng dường như Hàn Mặc Tử cảm nhận được mọi thứ đang biểu hiện ra trước mặt mình rõ mồn một. “Vườn ai” vườn của ai đây? Có thể là vườn nhà anh, cũng có thể là vườn nhà em, mà cũng có thể là một khu vườn nào đây mà anh và em đã từng đi qua, khu vườn ấy bao giờ cũng dát ngọc, đang ở thời kì sung mãn lắm. Bao nhiêu sự xanh tươi, mơn mởn, non tơ được gợi lên trong một từ “mướt”. Lá thì ví “xanh như ngọc”, ắt hẳn là phải có bàn tay khéo léo chăm sóc của con người thì khu vườn mới giàu sự sống đến vậy. Những chiếc lá mướt đến nỗi như có ai đã lau chùi từng cánh. Như thế là vườn mướt đâu chỉ dựa vào sức sông tự nhiên của miền quê Vĩ Dạ mà có cả công sức con người. Câu thơ cuối của khổ thơ không thấp thoáng một bóng dáng khuynh thi mà hiện lên hình ảnh của cô gái có khuôn mặt đôn hậu, dịu dàng ẩn sau lá trúc.
 
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
 
Thường thì ở thôn quê trong mỗi vườn tược bao giờ cũng có hàng trúc. Lá trúc cũng là biểu hiện cái hồn của những làng quê Việt Nam. Khóm trúc gợi cho khu vườn sự dân dã, thanh tao. Người thiếu nữ hiện ra sau bức rèm trúc xanh tươi của thiên nhiên càng e ấp thẹn thừng và có vẻ bí ẩn. Cái vẻ đẹp bí ẩn bao giờ cũng gợi sự tò mò muôn khám phá, nó khác xa với cái đẹp hơ hớ của những cô gái thị thành, “mặt chữ điền” là mặt của đàn ông con trai, nhưng ở đây nó lại miêu tả vẻ đẹp của người thiếu nữ, vậy có gì không phù hợp chăng? Rõ ràng là không, bởi ngày xưa người ta quan niệm rằng khuôn mặt chữ điền là chỉ một cô gái đẹp, đẹp cả vẻ bề ngoài lẫn phẩm hạnh bên trong. Đó là một cô gái có tấm lòng nhân ái, phúc hậu, bao dung. Ca dao xưa cũng từng ca ngợi.
 
Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung.
 
Vậy nên “mặt chữ điền” là một khuôn mặt hiền lành, vuông vức, đầy đặn và phúc hậu. Câu thơ được cách điệu hóa mang ý nghĩa tượng trưng. Con người chợt hiện lên trên cái nền thiên nhiên tươi mát làm cho cảnh vật sinh động hẳn lên. Con người và thiên nhiên như hài hòa vào nhau tạo nên một vẻ đẹp dịu dàng êm ái và thơ mộng.
 
 
Cảnh vật đang trong sáng tươi tắn bỗng trở nên chia lìa tan tác.
 
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
 
Thiên nhiên gợi cảm giác buồn, chia phôi như cuộc tình Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc về sau. Câu thơ đầu của khổ tách ra làm hai nửa “Gió theo lối gió >< mây đường mây”. Gió mây thường sánh bước bên nhau, vậy mà giờ đây gió đã đi đường gió, mây đi đường mây, anh đường anh, em đường em thử hỏi không buồn sao được. Cảnh chuyển động theo nhịp điệu cô đơn, không gian mở ra chiều rộng mà tĩnh lặng vào chiều sâu. Dòng nước cũng biết buồn “buồn thiu” - một nỗi buồn ủ rũ thật khó diễn tả, nó lặng là dến, lặng là buồn. Dòng nước dường như cũng hiểu được' tâm trạng hiu hắt trong lòng thi sĩ. Cái rung động nhẹ của hoa bắp cũng đủ để gợi một nỗi buồn lớn trong suy tư của nhà thơ. Mặc dầu vậy, tác giả không đắm chìm, âu sầu, buồn bã ngược lại rất lãng mạn, thơ mộng. “Thuyền ai”, một câu hỏi dường như mơ hồ mà đã được xác định ngầm. Câu thơ mang đậm tính chất ảo, nó không thực, không cụ thể như ở khổ thơ đầu nữa. “Đậu bến” chứ không là cập bến. “Đậu” mang ý nghĩa tạm bợ, đậu rồi lại bay, lại đi đấy thôi. Con thuyền không đậu ở một bến nào mà lại đậu ở “bến sông trăng” một cái bến của tưởng tượng, của hư vô, huyền ảo. Tác giả bắt đầu lạc sâu vào cõi mộng. Nỗi buồn và cô đơn khiến cho Hàn Mặc Tử đã lạc lôi, đi vào mộng ảo. Hình ảnh con thuyền dậu trên bến trăng, đẹp mà huyễn hoặc đến lạ kì. “Có chở trăng về kịp tối nay”, con thuyền chở trăng thì chỉ có trong ảo ảnh, làm gì có thực ở đời, nhưng câu thơ vẫn gợi cảm giác tò mò, khám phá. Tác giả hỏi mà như sợ rằng sẽ không chở kịp về được thì bao nhiêu trăng ấy tan ra - giấc mộng của thi nhân cũng sẽ biến mất. Dù thực dù mộng đoạn thơ vẫn chứa đựng đầy ắp nỗi buồn của tác giả. Và cảnh vật càng về cuối càng trở nên sương khói, xa xăm huyền ảo.
 
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.
 
Sự nồng nàn tha thiết được thể hiện ở điệu thơ giục giã “mơ khách đường xa khách đường xa”. Với nghệ thuật điệp từ đã bộc lộ niềm khao khát được gần gùi con người xứ Huế của nhà thơ. Tinh của thi nhân với thiếu nữ thật đằm thắm mà hình ảnh thì mộng mị bởi vì chỉ là “mơ” thôi. Ước mơ ấy có bao giờ trở thành hiện thực? Hình ảnh của cô gái xuất hiện mờ mờ, ảo ảo. Tất cả đều nhạt nhòa, nhìn mãi mà không ra, càng nhìn càng xa càng mờ. “Ớ đây” là ở đâu vậy? Nơi anh ở hay nơi em ở? Là trong ảnh hay giữa đời thường? Dù là ở đâu thì hình ảnh của em sương khói cũng đã làm mờ nhòa đi rồi. Sương khói có thể là sương khói thật, cũng có thể là sương khói của thời gian đã xóa đi mọi thứ, nó không còn rõ ràng, chân thực như trước nữa. Thời gian trôi đi cuốn theo bao điều đổi thay, chính vậy mà câu thơ cuối là một câu hỏi đầy thắc thỏm nghi hoặc.
 
Ai biết tình ai có đậm đà.
 
Câu thơ gợi một nỗi nhớ, một kí ức bâng khuâng, xa xôi và mờ ảo. Hai từ “ai” cùng xuất hiện trong một dòng thơ nhưng “ai” đầu dùng để hỏi còn “ai” sau là để chỉ người - ai mà biết được tình của ai đó liệu còn đậm đà nữa không? Xa xôi thế, cách trở thế thì cũng có quyền để nghi ngờ chứ.
 
Câu thơ mở đầu là một lời trách, câu thơ khép bài cũng lại là một lời trách nhưng không phải trách yêu nữa mà đã có phần hoài nghi, nó không còn chần thực, cụ thể, rõ ràng nữa mà đã rơi hẳn vào cõi mộng. Tuy vậy, chính câu thơ cuối đã nói lên biết bao tình cảm dẹt dào, nồng nàn của người hỏi, chính câu hỏi tự nó thể hiện khát khao cho người tình của mình vẫn thủy chung, vẫn đậm đà. Và đó cũng là ước vọng muôn đời về tình yêu của Hàn Mặc Tử.
 
Với ngôn ngữ điêu luyện, bút pháp tượng trưng lãng mạn Hàn Mặc Tử đã viết nên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giàu sức sống lay động. Nhà thơ đã làm một cuộc trở về trong tâm tưởng bằng tất cả tâ'm lòng yêu mến quê hương, thiên nhiên và con người xứ Huế. Bài thơ như một bức tranh vừa thực vừa mộng chứa đựng bao nhiêu nỗi niềm của người cầm bút, của một cort người bất hạnh mà đầy tài năng. Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ tình nhưng lại mang máu thịt của quê hương xứ sở và đậm hồn dân tộc.
Nguồn:
day thon vi da