Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu
Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới. Đây mùa thu tới là một nét cảm nhận tinh tế, sắc sảo trước sự đổi thay giao thoa của trời đất.
Xuân Diệu đã trải lòng mình ra để uống lấy những giọt lệ buồn bã ngàn đời trong thơ mới và cũng không quên náo nức reo ca trước sự chuyển mình của vạn vật sinh sôi, rồi cuối cùng rớt lại vẫn là cái ngậm ngùi tiếc nuôi tuổi xuân qua, thời gian ào ạt chảy. Mùa thu đến với Xuân Diệu qua lăng kính của đôi mắt, tác giả cảm nhận mùa thu tới bằng thị giác:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Mùa thu truức và mùa thu nay của Việt Nam thường bao giờ cũng mang nỗi buồn, thơ xưa mùa thu đến trên những chiếc lá ngô đồng rụng, hay những ao thu, ngõ trúc... Xuân Diệu lại có cách nói rất khác, vẫn là rặng liễu trong thơ cổ thường gặp đây nhưng lại mang một cái buồn rất mới, rất Tây. Dáng liễu nghiêng nghiêng buông thõng xuống như dáng hình của một người thiếu nữ. “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang”, nỗi buồn như rớt xuống vực sâu, không thể nào buồn hơn thế nữa. Liễu trong mùa thu buồn lắm, đã buồn rồi còn phải “chịu tang”, đây là thời điểm đất trời chuyển giao từ hạ sang thu, có nghĩa rặng liễu đang đeo tang cho mùa hạ. Nỗi buồn đã rơi xuống thành nước mắt, nhỏ ra ngàn giọt lệ. Cả một loạt từ “đìu hiu”, “chịu”, “buồn buông xuống”, “lệ ngàn hàng” đã biểu lộ được cái buồn thê lương, trĩu nặng, níu xuống đất trời và đè nén trong lòng thi nhân một nỗi niềm rơi rớt. Cái độc đáo ở hai câu thơ đầu là Xuân Diệu đã lấy vẻ đẹp của con người làm chuẩn mực cho cái đẹp của thiên nhiên vì vậy mà câu thơ mang tính nhân văn rõ nét.
Đây mùa thu tới mùa thu tới.
Đấy chính là tiếng reo vui, náo nức, xao xuyến, bồi hồi của tác giả. Khi mùa thu sang cảm xúc của nhà thơ bỗng chuyến đổi một cách bát ngờ, đột ngột, từ buồn sang vui sướng. Xuân Diệu nhắc lại điệp từ “mùa thu tới” như cùng nói với đất trời, nói với mọi người và cả với chính mình là mùa thu đã tới thật rồi. Ta thấy tâm hồn nhà thơ như một đứa trẻ khao khát sữa mẹ, khao khát được sông chan hòa, được giao cảm với cuộc đời.

Mùa thu tới có dáng sắc u buồn nhưng không ảm đạm. Cái rặng liễu đìu hiu không gợi sự tàn tạ mà vẫn choàng tấm áo mơ phai dệt bằng lá vàng thơ mộng. Cảnh buồn nhưng đẹp “với áo mơ phai dệt lá vàng”. Mùa thu sang vạn vật như được thay tarn áo choàng mới mẻ, sặc sỡ màu sắc. Mỗi độ chuyển giao là một lần thay đổi.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
ở hai câu thơ đầu của khố thơ vẫn là cầm nhận bằng thị giác, mùa thu vừa mới đến đảy thôi nhưng lại sắp sửa ra đi. Điều đó được thể hiện ở “hoa rụng cành”, “sắc đỏ rủa màu xanh” ở những cái run rẩy của lá và ở cả dáng hình xương xao, khô gầy, mỏng manh của cành. Tất cả nói lên bước đi vội vã của thời gian. “Hơn một loài hoa đã rụng cành”, cách dùng từ rất mới, rất Xuân Diệu: “hơn một” chứ không phải là một vài, là nhiều. “Rủa” nghe như hắt hủi, báo hiệu một sự ra đi không thể cưỡng lại được, sắc đỏ đã bắt đầu lấn át dần màu xanh của lá. “Run rẩy”, “rung rinh”, “mỏng manh” một loạt từ láy tạo cảm giác lạnh, yếu ớt, bé nhỏ không đủ sức để chông đỡ những luồng gió nữa rồi. Cái run rẩy của vạn vật thuận theo lẽ tự nhiên, riêng cái run rẩy trong lòng tác giả ý chừng như lo sợ thời gian trôi nhanh quá.
Thinh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò.
Trăng cũng ngẩn ngơ, chắc là không còn được bình yên sáng như trăng trong mùa thu nữa, nàng trăng cũng buồn trước cảnh đổi thay của đâ't trời. Cảnh buồn người cũng sầu, nhìn ra bốn phía đã thây sương mờ nhạt nhòa rồi. Những cơn gió đã lại mang hơi rét, cái rét thârn dần vào trong gió và tác giả cảm nhận được cái rét thấm trong cơ thể, cảm nhận cả cái rét giữa đất trời và cái rét trong lòng người. Điệp từ “đã”, lặp lại hai lần nghĩa là không còn nghi ngờ gì nữa - mùa đông đến thật rồi. Đông sang mang theo cái lạnh, rét run lòng người, mang theo sự vắng lặng trên cả những chuyến đò.
Mùa thu đến bằng thị giác, cảm giác rồi lan tỏa khắp mọi giác quan của con người.
Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li
ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
Cả bài thơ là một cảnh chia lìa, cứ niềm vui chưa kịp đến lại phải vội vã ra đi, hoa chưa kịp nở đã rụng, lá chưa kịp xanh đã đỏ, “mây vẩn từng không” mà “chim bay đi”, trời thì “hận chia li”, người thì “buồn không nói”... Tất cả ẩn chứa trong câu thơ cuối, trong cái “nghĩ ngợi gì”. Tác giả lấy hình ảnh người thiếu nữ để kết thúc cho bài với nhiều dụng ý. Xuân Diệu là một người luôn luôn có ước mơ được giao cảm với đời, là một con người luôn sống gấp, sống vội trước cái thời gian cứ trôi vùn vụt kia nên tác giả mới mượn hình ảnh của cô gái làm biểu tượng, cho sức xuân tuổi trẻ để nói lên sự tiếc nuối của lòng mình. Người thiếu nữ tuổi xuân có thì, có hạn mà thời gian cứ vẫn năm tháng chồng chất trôi đi, thử hỏi không buồn làm sao được. Tuổi trẻ là tuổi của tình yêu và sự háo hức, hăm hở, sôi động, thời gian cứ vụt qua mà con người không làm dược gì cả nên buồn, nên nghĩ ngợi. Đấy là một cái buồn đẹp, cái buồn nhân bản mang ý tưởng thẩm mĩ. Tác giả buồn vì bế tắc, đó cũng là cái bế tắc chung của thời đại.
Bài thơ được xếp lại trong nỗi buồn lắng sâu của tác giả. Mùa thu trong thơ Xuân Diệu vui có, buồn có nhưng có lẽ đặc sắc nhất vẫn là Đây mùa thu tới bởi nó đã diễn tả được những bước đi hết sức tinh tế của mùa thu, của đất trời từ lúc đến cho tới lúc đi mà một tâm hồn bình thường không dễ gì cảm nhận được. Đó là mùa thu và cảnh sắc của đâ't trời Việt Nam và là những nỗi niềm tất tả riêng tư của tác giả. Bài thơ mang dáng dấp phong cách thơ Pháp, âm hưởng chủ nghĩa tượng trưng Pháp nên cách diễn đạt gợi hình ảnh rất đặc sắc tinh tế, tạo được những hình ảnh gây ấn tượng, ngôn từ đắt. Tuy thế nó vẫn không mất đi cái âm hưởng và màu sắc dân tộc: vẫn là rặng liễu, vẫn là lá hoa, vẫn là trăng, là chuyến đò và người thiếu nữ duyên dáng. Tất cả những hình tượng ấy thấp thoáng đi vào Đây mùa thu tới tạo cái hồn dân tộc, tạo nên nét riêng cho bài thơ.
Nguồn:
- Phân tích khổ 2 bài thơ Tràng Giang của Huy Cận (14/12) Nguồn:
- Soạn bài Thao tác lập luận bác bỏ (14/12) Nguồn:
- Soạn bài Vội Vàng của Xuân Diệu nâng cao (14/12) Nguồn:
- Phân tích bài thơ Tôi yêu em lớp 11 (20/10) Nguồn:
- Bức tranh quê trong bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ (20/10) Nguồn:


