Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu (Thu Điếu) của Nguyễn Khuyến

Thứ sáu , 24/03/2017, 16:18 GMT+7
Xưa nay mùa thu từng gợi hứng cho biết bao thi sĩ làm thơ. Viết về mùa thu đã không có ít bài thơ hay chuyên chở trời thu, sắc thu tình tứ và có hồn. Nguyễn Khuyến cũng vậy, mùa thu trong thơ ông mang dấu ấn đặc sắc riêng. Đó là mùa thu của làng quê Bắc Bộ - đặc trưng của mùa thu Việt Nam. Hồn thu của Nguyễn Khuyến đậm đà màu sắc dân tộc.
Nguyễn Khuyến làm thơ để gửi gắm tâm tình. Ông tả cảnh mùa thu đi câu cá nhưng đi câu chỉ là dịp để nhà thơ được nhìn ngắm cảnh vật, buông thả hồn mình, giao hòa với thiên nhiên. Toàn bài Thu điếu là cảnh vật ở trạng thái tĩnh lặng và lắng lại đằng sau những câu chữ và hình ảnh của trời thu là nỗi lòng thầm kín của tác giả.
 
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
 
Mùa thu được bắt đầu từ không gian “ao thu” - một hình ảnh giản dị, dân dã nơi vùng ao chuôm nước đọng của miền quê Bắc Bộ. Cái lạnh lẽo thấm vào “ao thu”, nước thu và thấm cả vào hồn người cảm nhận. Hình ảnh “nước trong veo” gợi cảm giác đứng yên một cách tuyệt đối. Mùa thu thường không có gió mạnh để mặt nước chao động một cách dữ dội nhưng lại hay xuất hiện những làn gió nhẹ phe phẩy làm dao động mặt nước dù chỉ là rất khẽ, rất nhẹ. Nguyễn Khuyến đã vẽ lên bức tranh thu hết sức tĩnh lặng, tĩnh đến mức mà tác giả thấy được “nước trong veo”, dường như soi được đến tận cả đáy ao. Với cách gieo vần “eo” làm cho cảnh đã lặng càng lặng hơn.
 
 
Trên cái nền ao thu nhỏ bé đó xuất hiện một chiếc thuyền, có cả người đi câu. Chiếc thuyền đã bé lại tẻo teo, cảnh dường như co lại đến mức tột cùng, khác hẳn vối không gian trải rộng trong Thu vịnh. Nếu như cảnh ở Thu vịnh mênh mông bao nhiêu thì cảnh ở bài Thu điếu lại thu hẹp lại bấy nhiêu. Chiếc thuyền “tẻo teo” nổi lên trên mặt ao hình như cũng không di động. Cả hai câu thơ là một cảnh tĩnh lặng, bất động.
 
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
 
Đã bắt đầu có một chút dao động của mặt nước. Cái động rất khẽ, mọi cảnh vật vẫn tĩnh lặng. Cái gợn lên của mặt nước thực ra là động mà để nói tĩnh. Có tĩnh, có lặng thì tác giả mới nghe được cả tiếng lá “đưa vèo”. Một tiếng lá rơi giữa mùa thu mà thi nhân cũng cảm nhận được độ rơi, âm thanh của nó thì quả thực không gian ấy đã hoàn toàn im ắng. Đưa mà lại “đưa vèo”, “vèo” là một động tác rơi rất nhanh nhưng đó là “bay vèo”, song ở đây lại “đưa”, “đưa” thì không thể nhanh được mà thậm chí là chậm. Mà khẽ đưa vèo thì nó còn nhuốm vào đó một chút buồn, chút ngẩn ngơ. Với Nguyễn Khuyến, mùa thu không đến bằng hình ảnh lá ngô đồng nữa mà xuât hiện “lá vàng” — có lẽ là lá tre, lá trúc ở quanh quẩn bên bờ ao cứ đến mỗi độ thu về thay lá thì lại rơi xuống mặt hồ. Hình ảnh này râ't quen thuộc, đặc trưng cho mùa thu ở nông thôn Việt Nam. Không gian được đẩy ra cao rộng hơn.
 
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
 
“Tầng mây lơ lửng”, bầu trời được nâng cao lên bao trùm hết cái ao nhỏ bé. Cái “lơ lửng” của tầng mây, cái “xanh ngắt” của nền trời tạo một cảm giác bâng khuâng khó hiểu. “Ngõ trúc” - một hình ảnh mà hầu như làng quê nào trên đất nước Việt Nam cũng không thiếu. Con đường làng “quanh co” tạo nên cái uốn lượn vòng vèo và có một chút hun hút của ngõ làng trong một buổi chiều vắng. “Vắng teo” vắng đến không có một bóng người.
 
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
 
Bài thơ nói về chuyện đi câu mà đến câu thứ bảy rồi mới xuất hiện hình ảnh của ông già câu cá. Người câu “tựa gối” như suy tư điều gì chứ không chú tâm vào việc câu cá. Hình như Nguyễn Khuyên mượn cái thú đi câu để nghĩ về việc đời, việc nhân tình thế thái chứ không thực sự vì mục đích câu cá. Vậy nên ngồi đã lâu mà chẳng được con cá nào. Đến cái điều mà tác giả đang nghĩ suy cũng lặng đi trong cái “tựa gối”.
 
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
 
Câu thơ làm mặt nước rung lên, chao động. Cả bảy câu thơ hầu như toàn là cảnh lặng trong trạng thái tĩnh, riêng câu thứ tám làm lung lay cả bài thơ. Cái động phá vỡ sự tĩnh lặng, u buồn, làm cho cảnh trở nên sinh động hẳn lên. “Cá đâu đớp” là câu hỏi tu từ, một câu hỏi càng nhấn mạnh thêm việc đi câu không phải là chủ yếu mà chỉ là cái cớ để nhà thơ thả những tâm sự kín đáo của mình vào cảnh vật, thiên nhiên, đất trời mùa thu. Câu thơ cuối của bài bát cú thường được gọi là câu “điểm nhãn”. Sau vẻ tĩnh lặng của một sức sông tiềm ẩn, mãnh liệt, tạc vào thi nhân trong dáng vẻ ngư ông, một đường nét bất động trên bức tranh thu. Tâm trí Nguyễn Khuyên dâu có để ở việc câu cá, ông còn mãi ngắm cảnh và bận suy tư. Bởi thế nên người câu cứ tựa gô'i ôm cần, mà cá thì cứ bình thản “đớp động”. Hai việc ấy chả có gì liên quan tới nhau cả.
 
Bài thơ là bức tranh thủy mặc giữa mùa thu tuyệt đẹp được dệt bằng ngôn từ dưới bút pháp tài tình của Nguyễn Khuyến. Thu điếu vừa đẹp vừa buồn, cái đẹp dành cho thiên nhiên vạn vật, cái buồn dành cho nỗi lòng nhà thơ - cái buồn mang tính nhân bản của một con người luôn nặng nợ với nước nhà, quê hương.
Nguồn:
phan tich bai tho thu dieu