Phân tích bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt

Thứ năm , 19/10/2017, 18:53 GMT+7
Phân tích bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt. Bài thơ là sự sáng tạo độc đáo của Bằng Việt về hình tượng bếp lửa vừa mang ý nghĩa triết lí thầm kín. Mỗi con người đều có một người bà, người mẹ, một quê hương để yêu và đế nhớ. Đó là chỗ dựa tinh thần, nâng bước ta đi trên hành trình dài rộng của cuộc đời…
Ai cũng có những kỉ niệm thời thơ ấu cho riêng minh và tất nhiên những kỉ niệm đó có lẽ là đẹp nhất, có lẽ là thấm đượm nhất bởi vì nó trong sáng, nó không hoài nghi
Nói cách khac là  không vướng những băn khoăn của cuộc sống nên những kỉ niệm đó vô cùng đẹp. Bằng Việt cũng vậy ông có kí ức đẹp đẽ về người bà của mình được ông thể hiện trong bài thơ bếp lửa.
 
Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngọn lửa cháy rực trong nỗi nhớ của tác giả. Những câu thơ đầu mới đọc qua thôi mà đọc gỉa cảm thấy tấm chân tình, nỗi nhớ đầy ắp trong đó.
 
+ Đó là hình ảnh những ngọn lửa”chờn vờn” được thắp lên trong màn sương sớm, chưa hé lên mặt trời của ngày mới
 
+ Qua câu thơ đầu hiện lên người bà cần mẩn, lo bếp núc, lo cho cuộc sống không chỉ bản thân mình mà cho đứa cháu nhỏ thơ của mình
 
+ Là ngọn lửa của tình thương, của sự”ấp iu nồng đượm” ; ngọn lửa của sự bảo bọc của người bà; ngọn lửa ấy luôn lan tỏa trong trái tim bà dành cho đứa cháu của mình
 
- Tiếp theo là những câu thơ tái hiện lại cuộc sống lúc đó của hai bà cháu:
 
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi…
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
 
+ Cái mùi khói cay cay đã ăn sâu vaò mũi cháu, mùi đó làm cho người cháu nghe như một mùi đặc trưng, khó phai mờ tỏng tâm trí rồi. Là hình ảnh bố đi làm việc mỏi mệt; cách miêu tả của tác giả hình ảnh “ngựa gầy” để nói đến người cha cũng hao gầy vì công việc mưu sinh. Hình ảnh khói của căn bếp năm đó luôn ẩn hiện trong tâm trí của cháu mà mỗi khi nhớ đến như một phản xạ tự nhiên, tự dưng “sốn mũi còn cay”. Mới là cậu bé bốn tuổi nhưng hình ảnh về người bà, người cha luôn ghi nhớ trong đầu đứa bé mãi không quên
 
- Câu chuyện được nối theo cảm xúc của tác giả, vẫn tieps tục là những hình ảnh về bà. Dường như trong tâm trí cậu bé lúc đó hình ảnh bà luôn hiển diện trong đầu cậu bé
 
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cách đồng xa….
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
 
+ Những năm kế tiếp vẫn là cuộc sống khó khăn, gian khổ bên bà. Cậu bé nhớ lại những “tiếng tu hú kêu”; nhớ lại những chuyện bà kể về Huế. Cháu lớn lên bên vòng tay săn sóc của bà, bởi lẽ:
 
 Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe (...)
 
+ Dường như bà vừa đóng là người bố, người mẹ và người bạn thân thiết của đứa cháu mình. Và cậu bé đó luôn vâng lời bà; nghe những gì bà chỉ bảo
 
- Tiếp theo là những tháng ngày chống giặc cùng bà; những lần chạy giặc; những lần phải dựng lại ngôi nhà tạm bợ vì nhà cũ đa bị tụi giặc đốt hết. Bà và cháu vẫn không một lời than, vẫn cùng làng xóm làng giềng xây nên nơi ở, để trở thành  điểm tựa vững chắc cho những con người ở ngoài mặt trận ấy.
 
 - Giờ đây, cậu bé lớn lên đã có đầy đủ những thứ khi xưa không có; đã sống ở thời đại mà không có bà kề bên. Cháu nhớ đến bà và không quên nhắc bà”sớm mai nay bà nhóm bếp lên chưa”
 
Bài thơ Bếp Lửa đã đánh thức bao cảm xúc người đọc qua giọng văn kể của tác giả. Bài thơ thật tuyệt đẹp biết bao về những kỉ niệm của tuổi thơ cùng người bà yêu dấu.

NỘI DUNG BÌNH GIẢNG BÀI THƠ THAM KHẢO

Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

Bằng Việt đến với thơ từ đầu những năm 60 của thế kỉ XX, thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Bài thơ Bếp lửa được sáng tác vào năm 1963, khi tác giả là sinh viên du học tại Liên Xô. Bài thơ gợi lại những kĩ niệm về người bà và tình bà cháu sâu sắc, nồng đượm tình yêu thương.

Mạch cảm xúc của bài thơ từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm của nhân vật trữ tình - người cháu về hình ảnh người bà giàu tình thương, giàu đức hi sinh. Hình ảnh người bà luôn gắn liền với hình ảnh Bếp lửa.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

“Bếp lửa chờn vờn sương sớm” là hình ảnh quen thuộc của mỗi gia đình người Việt Nam. Bếp lửa được bà nhóm lên mỗi sáng sớm như nhóm cả tâm tình tuổi nhỏ, khơi dậy trong lòng người cháu cho mãi đến tận bây giờ. Dù người cháu có đi xa, nhưng ngọn lửa ấp iu ấy nồng đượm “ấm áp tình yêu thương của bà cháu”. Nghĩ về bếp lửa, đứa cháu nhớ thương bà khôn xiết kể.

Hình ánh bếp lửa “chờn vờn”, “ấp iu” rất giàu hình tượng, có sức gợi ta đặc biệt về tình cảm nhớ thương da diết của người cháu đối với bà một đời khó nhọc, kiên nhẫn, chi chít. Hình ảnh đó gợi lại một thời thơ ấu bên bà.

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Tuổi thơ ấy nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn, làm sao có thế quên được những hình ảnh “quen mùi khói”, người “bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”, “khói hun nhèm mắt cháu” và nhất là khi tuổi thơ “lên bốn” phải chứng kiến cái cảnh đen tối, đói khổ của nhân dân ta vào năm 1945 do sự bóc lột tàn nhẫn của thực dân Pháp mang lại. Cái bóng đen ghê rợn của lịch sử đã tin đậm vào kí ức tuổi thơ. Và cái mùi “khói hun” kia mãi đến tận bây giờ, khi nghĩ lại “sống mũi còn cay”.

Kỉ niệm bà và những năm tháng tuổi thơ luôn gắn liền với hình ảnh bếp lửa. Sự hiện diện của bếp lửa như là tình bà ấm áp “bà bảo cháu nghe”, “bà chăm cháu học”. Bà là chỗ dựa tinh thần của người cháu. Trong hoàn cảnh chung của đất nước trong thời kì kháng chiến chống Pháp, mọi người dân lên đường giết giặc cứu nước là một hiện thực hùng hồn và họ đã để lại phía sau lưng mình “gian nhà không mặc kệ gió lung lay” (Đồng chí - Chính Hữu) và ở đó chỉ có một mẹ già và những đứa con thơ. Trong hoàn cảnh đặc biệt đó, người bà càng trở nên chỗ dựa vững chắc hơn, ấm áp hơn đối với người cháu.

Trong mạch cảm xúc về quê hương, về bếp lửa của tình bà cháu, tác giả còn có một liên tưởng về tiếng chim tu hú. Tiếng chim quen thuộc trên cánh đồng quê Việt Nam vào những độ hè về. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải khơi dậy trong lòng người những hoài niệm, nhở mong.

Tu hú kêu trên những cảnh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Tiếng chim tu hú trở thành một mảnh tâm hồn của tuổi thơ, của một thời cháu ở cùng bà - tiếng chim quen thuộc, vang vọng, cho mãi tận bây giờ, tiếng chim tha thiết yêu thương. Tiếng chim kết nối giữa quá khứ và hiện tại, thấm đẫm nỗi niềm khắc khoải, nhớ mong, để rồi có lời trách cứ nhẹ nhàng gợi nhiều cảm xúc.

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Trong dòng suy tưởng giàu chất suy tư về người bà, tác giả còn nhớ rõ như in về hình ảnh trên đất nước ta diễn ra những trận càn của giặc “đốt lang cháy tàn cháy rụi”, hình ảnh người dân “trở về lầm lụi” đỡ đần bà dựng lại túp lềp tranh. Thế nhưng bà vẫn vững vàng trước mọi tai vạ, thử thách.

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Đoạn thơ tự sự giàu cảm xúc. Tác giả không chỉ kể lại những kỉ niệm về bếp lửa, về người mà mà còn bộc lộ một tình cảm thiêng liêng, trân trọng của đứa cháu với người bà - Bà là quê hương, là niềm kính yêu, là tất cả... từ những hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu suy ngẫm về cuộc đời của bà. Hình ảnh bà luôn gắn với hình ảnh bếp lứa, ngọn lửa. Bếp lửa bà nhóm lên từng sớm sớm chiều chiều đã bùng lên thành “ngọn lửa” bât diệt, ngọn lửa của tình thương mà lòng bà “luôn ủ sần”, ngọn lửa của sức sống, của niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Dòng suy giàu cảm xúc đã chắp cánh cho lời thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động, tự hào:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Tác giả tiếp tục suy ngẫm, bình luận về người bà kính yêu, về bếp lửa - cuộc đời bà nhiều “lận đận”, từng trải “nắng raưa”. Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm vì cuộc sống của con cháu trong gia đình:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Bếp lửa do tay bà nhóm lên mỗi sớm mai là nhóm lên tình yêu thương, “ấp iu nồng đượm”, niềm vui san sẻ hương vị ngọt bùi của khoai sắn, dẻo thơm của nồi xôi gạo mới.

Và nhóm cả tâm tình tuổi nhỏ

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ý thơ lan tóa, giàu suy tư, cảm xúc, khơi gợi những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu. Hình ảnh người bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa - ngọn lửa của sự sống, lòng yêu thương; ngọn lửa của kỉ niệm, ước mơ, của tâm tình tuổi nhỏ mà chính tay bà đã thắp sáng, làm bùng lên tâm hồn người cháu bao niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước người cháu trên suốt hành trình dài của cuộc đời. Trong dòng cảm xúc dạt dào ấy lời thơ bổng vang lên: “ôi kì lạ và thiêng liêng - bêp lửa!” câu thơ cảm thán giàu chất trí tuệ và cảm xúc đem đến cho người đọc bao liên tưởng sâu xa về người bà, người mẹ về gia đình và quê hương, đất nước.

Bây giờ người cháu của bà đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay xa, được mở rộng tầm nhìn “có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”. Nhưng chẳng lúc nào nguôi quên ngọn lửa của bà, tấm lòng đùm bọc ấp iu của bà:

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Lời thơ tha thiết, chân thành, khơi gợi cảm xúc sâu lắng, mãnh liệt của đứa cháu luôn nghỉ về bà kính yêu. Ngọn lửa kì diệu do bà nhóm lên nâng bước người cháu trên hành trình dải rộng, được tiếp xúc với khung cảnh rộng lớn, những niềm tin thiêng liêng đã cổ vũ, nhắc nhở người cháu có bao giờ nguôi quên. Kết thúc bài thơ, điệu thơ chùng xuống, nặng trìu ưu tư: “Sáng mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Trong bài thơ có tới mười lần tác giả nhắc tới bếp lửa và hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh người bà - người bà tần tảo, chịu thương chịu khó, giàu lòng hi sinh. Bếp lửa, ngọn lửa do tay bà nhóm lên “nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ”, nhóm cả tình yêu thương chi chút dành cho con cháu và mọi người. Hình ảnh người bà có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài còn là thế hiện sự gắn bó với gia đình, quê hương đất nước. Chính vì vậy mà hình ảnh “bếp lửa” được tác giả cảm nhận và thế hiện thật giàu cảm xúc theo chiều hướng thăng hoa của tâm hồn.

Bài thơ là sự sáng tạo độc đáo của Bằng Việt về hình tượng bếp lửa vừa mang ý nghĩa triết lí thầm kín. Mỗi con người đều có một người bà, người mẹ, một quê hương để yêu và đế nhớ. Đó là chỗ dựa tinh thần, nâng bước ta đi trên hành trình dài rộng của cuộc đời. Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận, giọng thơ, thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm, tất cả tạo nên hiệu quả nghệ thuật của bài thơ.

*****

Nguồn: