Phân tích bài Hịch Tướng Sĩ của Trần Quốc Tuấn
I- Tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc chỉ có một nhưng hình thức biểu hiện tinh thần ấy thì phong phú vô cùng. Đánh giặc để cứu nước là hành động biểu hiện tinh thần yêu nước của chiến sĩ; làm việc quên mình để đất nước đổi thay, dân tộc hưng thịnh là biểu hiện của người dân lao động ... Dùng các hình thức nghệ thuật, ngôn ngữ thơ ca để khích lệ binh tướng, mọi người là hình thức biểu hiện lòng yêu nước, thương nòi của người văn võ song toàn mà Trần Quốc Tuấn là một trong những người tiêu biểu.
Là người đã một lần tham gia kháng chiến chống lũ Nguyên Mông thuở còn trẻ tuổi, Trần Quốc Tuấn luôn ưu tư, khắc khoải vì thế nước, sức dân trước sức mạnh và mộng bá đồ vương của vua, tướng nhà Nguyên. Biết được quân Nguyên đang hăm hè hô vang trên Ải Bắc, chỉ nay mai là chúng vượt biên thùy. Muốn thắng nguy cơ ấy, quân sĩ thuộc quyền phải tinh thông võ nghệ. Với tài nhìn xa, trông rộng, Trần Quốc Tuấn đã viết Dụ chư tì tướng hịch văn mà Bùi Văn Nguyên chuyển từ chữ Hán qua ngôn ngữ Việt hiện đại với tựa bài: Hịch tướng Sĩ
II- Hịch thuộc thể loại văn chiến đấu ngày xưa, nhằm kêu gọi mọi người tham gia chiến đấu chống lại thù trong, giặc ngoài; và thường chỉ vua chúa, tướng tá mới thảo hịch. Dù là văn nghị luận nhưng trong hịch vẫn có văn tự sự, miêu tả mang tính hùng biện có sức lôi cuốn mọi người. Hịch tướng sĩ mang đủ những đặc tính ấy.
Ngữ điệu được sử dụng ở đoạn đầu. Trần Quốc Tuấn đã kể lại chuyện “cức bậc trung thần nghĩa SƯ thời xưa quyết bỏ mình vì nước những vị tướng nổi tiếng trong thời Xuân Thu, Chiến quốc ở bên Tàu. Kể lại là để trả lời câu hỏi... “là người thế nào?“ nhằm xác định nhờ đó mà họ đã “lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ ”.
Giọng điệu tâm tình đã được Trần Quốc Tuấn vận dụng triệt để đoạn 2, 3, 4, mạnh yếu tùy theo nội dung của từng câu văn nhưng tập trung ồ nghệ thuật khai thác tối đa cảm xúc của binh tướng khi được nghe bài hịch.
Ngôi thứ trong bài phân định rõ ràng: Trên - dưới, ta - ngươi, nhưng không xa cách; ngược lại có vẻ gần gũi, sự gần gũi giữa vị tướng và binh sĩ trong chế độ phong kiến đã có nền đạo đức ổn định. Càng gần gũi với binh lính hơn nữa khi Trần Quốc Tuân xác định hoàn cảnh sông của ta “ta- ngươi” là “thời loạn lạc ..., buổi gian nan” do lực của ta yếu, do thế của ta chưa vữhg, do kẻ thù tạo ra. Ngôn ngữ kể ở đoạn này đã bắt đầu khác. Ngôn ngữ so sánh được sử đụng, hạ thấp giá trị làm người của “sứ giặc” xuống hàng các loài động vật. Mỗi phần câu ở đây mang hai hình ảnh đối lập diễn đạt hai bản chất đối kháng mãnh liệt. “Cú diều, dê chó” đốì lập vđi “triều đình, tể phụ“; “đòi ... thỏa lòng tham không cùng ...” trong khi triệu đình thì “của kho có hạn“. Thiện, ác được kể ra thật rõ ràng để đưa đến kết luận chí tình, chí lý: “Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi tai vạ về sau”.

Ở đoạn 2 này, văn tự sự lẫn miêu tả cũng được vận dụng thật nhuần nhuyễn, mỗi từ, mỗi hình ảnh trong câu đều gợi nên trong tâm trí người nghe, người đọc nỗi căm tức, trăn trở v.à muốn cùng Trần Quốc Tuấn hành động. Tác giả trăn trở, suy nghĩ phương kế tìm cách quét sạch bọn “cứ diều, dê chó” đến nỗi “tới bữa quên ăn”, căm tức bọn họ cho đến nỗi không ngủ được, “nửa đêm vỗ gối” đem lòng mình than với đất trời im lặng; tủi phận làm tướng, thương tể phụ, xót xa cho cuộc sống cực nhọc, khổ sai của dân nghèo đói đến nỗi “nước mắt đầm đìa”. Như thế thì chỉ có hành động, và hành động; hi sinh, và chấp nhận hi sinh “Dấu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng
Đấy là ý hướng tự nguyện chấp nhận hy sinh của vị tướng nghĩ đến vận nước, đời sống của quân dân; đó là lòng căm thù sâu sắc những kẻ co thái độ khinh mạn, ngạo ngược và lòng tham không cùng.
“Ta” (Trần Quốc Tuấn) thì như vậy, còn “ngươi” (binh lính thuộc quyền) thì sao? CQng với giọng điệu tâm tình, Trần Quốc Tuấn đã liệt kê những lo lắng từ chén cơm manh áo đến phương tiện đi ra chiến trường của triều đình cho quân sĩ, cách sống hòa đồng của tướng quân “lúc xông pha trận mạc thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười”. Tác giả đã lấy sự lo lắng, hòa đồng đó làm cơ sở phê phán nghiêm khắc thái độ bàng quan, lối sống hưởng nhàn lúc đất nước còn chiến tranh của tướng sĩ thuộc quyền. Như thế, ta thấy lập luận của tác giả đã dùng phép diễn dịch và liên tưởng nhân quả để xây dựng đoạn văn mang nội dung về tình hình của quân ta. Câu chốt của đoạn văn, câu mang ý chính, ý tổng quát của đoạn văn là câu mở đoạn; nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn” Tại sao “chủ nhục, nước nhục”? - Ây là phải mang nhạc lễ (nhạc Thái thường) để đãi yến ngụy sứ, ấy là “làm tướng triều đình phải hầu quân giặc”. Tại sao “ngụy sứ” mà mình phải “đãi”, “quân giặc” mà mình phải “hầu”? - Là bởi mình thích “chọi gà, đánh bạc, quyến luyến vợ con, lo làm giàu, thích rượu ngon, mê tiếng hát...”. Tác giả lại đặt giả thiết tệ hại hơn nữa là “nếu có giặc Mông Thái tràn sang ... ” thì các thú vui chơi đầy mưu mẹo kia không thể đem ra để giết, để thắng chúng. Lỵ lẽ cứ quyện chặt lây nhau, nhân luôn đi liền với quả. Không thể giết được giặc, không thể thắng được giặc thì tất yếu là bị giặc bắt. Giặc thắng, của cải - vợ con - thái ấp - ruộng vườn - nhà cửa... bị chúng lấy sạch, mồ má cha ông bị chóng “giày xéo”. Nhục hơn, đau hơn là bia miệng ngàn năm “tiếng dơ khôn nửa, tên xấu còn lưu ... cũng
không khỏi mang tiếng là người bại trận”. Trần Quốc Tuân đã nói hết tâm can của mình, phân tích tận ngọn nguồn tai hại của đạo binh mất cảnh giác bằng lời văn sôi sục nhiệt huyết và tràn đầy cảm xúc. Tác giả đã vô cùng khôn khéo lấy cái thiết thân đau xót, tủi nhục của con người mất nước để đánh bại cái thiết thân vui hưởng lạc thú ở trong con người của mỗi binh tướng thuộc quyền. Nhờ đó, tác giả cảnh tỉnh họ. Chiến tranh tâm lý, trước hết phải chiến đấu và chiến thắng những thói hư tật xấu trong hàng ngũ quân sĩ của mình. Trần Quốc Tuấn đã làm việc ấy.
Nếu như phần kết của đoạn 3 Trần Quôc Tuấn khẳng định đã là người bại trận thì “dẫu các ngươi muôh vui vẻ phỏng có được khống?”. Câu hỏi tu từ mang tính khẳng định ây có sức xoáy sâu vào tâm hồn của mỗi binh tướng. Hỏi như vậy tức là đã ưả lời, hỏi là đã mở, mở ra phương cách để tạo và giữ niềm vui. Muôn niềm vui không mất vì giặc tràn sang thì phải cảnh giác đề phòng giặc, phải biết “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” mà siêng năng “huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên..”. Có sức mạnh, có lòng tin ... thì thái ấp mãi mãi vững bền. Và tác giả dùng câu hỏi mang ý ngược lại: “Lúc bấy giờ dẫu các ngươi muốn vui vẻ, phỏng có được không?”. Cả hai câu hỏi đều quy về hạnh phúc của mỗi người, mất hay được đều do sự cảnh giác đề.phòng của mỗi con người ây. Cái riêng gắn chặt với cái chung, sự sông còn của triều đình, tể phụ gắn chặt với sự sống còn của mỗi thành viên binh tướng. Từ đó, tác giả mới răn, mới đe, răn đe theo đạo thần chủ, biết tuân theo thì “sử sách lưu thơm”, còn không thì “là kẻ nghịch thù”. Ta cũng cần chứ ý đến câu cuối của bài hịch, Trần Quốc Tuấn viết: “Ta viết ra bài hịch này để các ngươi biết bụng ta”. Tác giả đã viết bằng cái tâm (bụng), bằng tình thương, bằng nhân nghĩa chứ không thuần tuy bằng lý trì. Trung quân, ái quốc - nghĩ cho cùng thì cũng từ đó mà có.
Sự tồn tại của đất nước, dân tộc là trên hết, trước kia, cũng đã có nhiều người nói, hành động. Nếu không nói, không hành động vì yêu nước thương nòi thì chẳng ai nhắc tới Hùng Vương, Trưng Trắc, Lê Hoàn... Ngô Quyền, và gần hơn là Lý Thường Kiệt. Hịch tướng sĩ mang truyền thống tự hào của Nam quốc sơn hà, mang truyền thông khao khát và quyết giữ vững nền độc lập, tự chủ.
III- Dụ chư tì tướng hịch văn, hay Hịch tướng sĩ là một bài văn thuộc thể loại hiếm thấy ở nước ta. Sau này, khi nhà Tây Sơn đem quân đánh chúa Trịnh cũng viết Hịch đánh chúa Trịnh, và khi gặp Pháp xâm lược nước ta, nhân dân Lục tỉnh cũng viết Hịch đánh Tây. Điều ấy chứng tỏ nội dung của bài hịch có sức tác động mạnh mẽ đến tinh thần chống giặc đối với nhân dân ta như thế nào rồi. Thông thường, văn hịch là văn nghị luận, nhưng vẫn có cả văn tự sự, miêu tả. Dù vậy, lập luận phải khúc chiết, đanh thép, trữ tình và xoáy vào lòng người. Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn có đầy đủ các điều kiện ấy, và cồn hơn thế nữa là tạo được một sự thuyết phục, cuốn hút, gây cảm xúc mạnh mẽ về lòng tự hào dân tộc đối vổi thế hệ trẻ hôm nay.
*Các điểm cơ bản lưu ý khi phân tích bài Hịch Tướng Sĩ của Trần Quốc Tuấn
Về hình thức, hịch được viết theo thể văn biền ngẫu.
Về ý nghĩa thì hịch được làm để khích lệ tinh thần, đánh động tình cảm của người nghe.
Cũng như Chiếu dời đô, bài văn này có nhiều điển cố lịch sử. Muốn hiểu sâu ý văn thì nên đọc thật kỹ phần chú thích.
+ Có thể chia bài văn thành 3 đoạn, mỗi đoạn theo ý chính sau:
- Chuyện xưa trong sử sách còn lưu tiếng tốt.
- Chuyện nay: giặc ngông nghênh, quần sĩ sống bàng quan, hậu quả sẽ mất nước, tan nhà.
- Kêu gọi tướng sĩ luyện tập binh thư.
+ Giọng văn vừa là lời của chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền, vừa là lời của kẻ cùng cảnh ngộ - vừa là lời khuyên răn bày tỏ thiệt hơn vừa là lời nghiêm khắc cảnh báo. Học sinh tìm các chi tiết trong các đoạn văn có nội dung liên quan để chứng minh.
+ Hình tượng ẩn dụ: “lưỡi cú diều ”, “thân dê chó ”.
- So sánh đối lập: “nhìn chủ nhục ... mà không biết căm”, “cựa gà trông ” > < “áo giáp”, “mẹo cờ bạc ” > < “mưu lược nhà binh ”...
- Lập luận theo phương pháp nhân quả.
- Nghệ thuật sử dụng điệp từ để nhấn mạnh.
- Thuyết minh về hoa Hồng loài hoa mà em yêu thích (08/10) Nguồn:
- Kể về việc em giúp bà cụ già qua đường (26/09) Nguồn:
- Thuyết minh về con trâu (11/08) Nguồn:
- Kể về một kỉ niệm đáng nhớ với con vật nuôi mà em yêu thích (05/08) Nguồn:
- Kể về một việc tốt mà em đã làm trên đường đi học về (11/07) Nguồn:


