Phân tích Bài ca ngất ngưỡng Nguyễn Công Trứ
Phân tích Bài ca ngất ngưỡng của Nguyễn Công Trứ để thấy thái độ và phong cách sống ngất ngưỡng của ông thể hiện qua bài thơ.
Nguyễn Công Trứ là một trong những nhà nho tài năng và nhiệt huyết trên nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, từ văn hoá, kinh tế đến quân sự. Ông luôn có khát vọng cao đẹp. ông coi việc làm quan là mất tự do nhưng ông vẫn ra làm quan vì đó là phương tiện đế ông thể hiện tài nàng và hoài bão của mình.
Nguyễn Công Trứ sáng tác nhiều nhưng hầu hết bằng chữ Nôm. Thể loại ưa thích nhất của ông là hát nói. Bài ca ngất ngưởng là một sáng tác tiêu biểu của ông. Qua Bài ca ngất ngưởng, ta thấy được bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống của Nguyễn Công Trứ.
Ngất ngưởng: Ở tư thế không vững, lắc lư nghiêng ngả như chực ngã.
Nghĩa từ “ngất ngưởng” trong bài thơ: “Ngất ngưởng” thực chất là một phong cách sống tôn trọng sự trung thực, tôn trọng cá tính, không chấp nhận uốn mình theo lễ và danh theo quan niệm của Nho giáo. Nói cách khác “ngất ngưởng” là cá tính, bản lĩnh vượt ra khỏi khuôn khổ lễ, coi thường lễ, hình thành một lối sống thật hơn, dám khẳng định bản tính cá nhân.
Trong bài thơ, ngoài tựa bài, tác giả đã bốn lần sử dụng từ ngất ngưởng. Trong mỗi văn cảnh khác nhau, từ ngất ngưởng lại mang sắc thái riêng, có tác dụng làm nổi bật bản lĩnh của Nguyễn Công Trứ.
Bản lĩnh cá nhân của Nguyễn Công Trứ:
a) Quan niệm về lễ và danh của nhà nho
Nhà nho đề cao đạo trung hiếu. Tuy coi trọng tài nhưng vẫn đề cao đức hơn. Nguyễn Trãi đã từng cho rằng: “Tài thì kém đức một vài phân”.
Khuôn mẫu ứng xử phố biến của nhà nho là sự nghiêm cẩn, khiêm tốn, lễ nghi phép tắc. Nói cách khác, cần giấu cái cá nhân riêng tư, uốn mình theo khuôn khổ lễ giáo. Cách ứng xử phổ biến của nhà nho là phục tùng lễ. Lễ nhằm quy định phận vị của mỗi cá thể trong xã hội, do đó đề cao cái cá nhân, đề cao lí trí và thủ tiêu tình cảm tự nhiên. Quan niệm đó hạn chế sự năng động, sáng tạo cá nhân.
b) Quan niệm của Nguyễn Công Trứ
Trên cơ sở ý thức về tài năng và nhân cách của bản thân, Nguyễn Công Trứ trong Bài ca ngất ngưởng đã phô trương, khoe sự ngang tàng, sự phá cách trong lối sống của ông, lối sống ít phù hợp với khuôn khổ của đạo Nho.
c) Biểu hiện của bản lĩnh cá nhăn
Khi làm quan: Mở đầu bài thơ, tác giả viết:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự, ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng...
Nghĩa đen: Lồng là đồ dùng đan thưa bằng tre nứa, hoặc đóng bằng gỗ dùng để nhốt chim.
Nghĩa lồng trong bài thơ: Chỉ xã hội phong kiến Việt Nam với những quy định khắt khe, ngặt nghèo.
Nguyền Công Trứ cho rằng làm quan bị mất tự do như con chim bị nhốt trong lồng, nhưng ông vẫn ra 'làm quan vì đó là phương tiện đế ông thế hiện tài năng và hoài bão của mình. Điều đó được chứng minh qua những năm tháng ông làm qụan. Trong khi hành đạo, ông luôn tỏ ra thẳng thắn, thậm chí dám kiên nghị, góp ý cho cả vua. Có phong cách làm việc như vậy vì ông có tài năng thực sự và tận tâm với sự nghiệp, không hề luồn cúi để vinh thân phì gia. Điểm qua lại những chức quan ông đảm nhiệm ta cũng thấy được ông là người tài năng: khi thi, ông đậu Thủ khoa, khi làm Tham tán, khi làm Tổng đốc... Dù ở cương vị nào thì ông cũng sống bằng con người thật của mình: ngay thẳng và năng động, sáng tạo. Chính ông cũng tự khẳng định mình là người “tài bộ” (tài hoa) “Gồm thao lược đã nèn tay ngất ngưởng”.
-> Trong thời kì làm quan, phong cách sống của Nguyễn Công Trứ đã thể hiện được ông là người có bản lĩnh hơn người.
Khi về hưu:
Ngay khi về hưu bản lĩnh cá nhân của Nguyễn Công Trứ cũng được thể hiện khá rõ nét trong Bài ca ngất ngưởng. Sau khi từ quan, cách ông nghỉ và chơi cũng rất ngông, rất khác thường:
Đô môn giải tổ chi niên
Khen chè phơi phới ngọn đông phong.
Ông tự đánh giá cao các việc làm ấy. Ông cho rằng mình có quyền ngất ngưởng vì ông về hưu trong danh dự, sau khi đã làm được nhiều việc có ích cho dân. Ông quan niệm rằng mình đã cống hiến hết tài năng và nhiệt huyết cho xã hội, cho triều đại, do đó “nghĩa vua tôi” đã thực hiện trọn vẹn. ông coi điều quan trọng nhất của nhà nho là hoạt động thực tiễn chứ không phải là nếp sông uốn mình theo dư luận. Ông vui với niềm vui hoà trong thiên nhiên: “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”.
Bản lĩnh của ông còn được thể hiện qua việc ông thích hát nói và dẫn các cô gái lên chơi chùa, đi hát ả đào vì ông không muốn tỏ ra mình là bậc phi phàm, khác đời như các thánh 'nhân. Từ thế kỉ thứ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, thú nghe hát ả đào đã trở thành phổ biến trong giới quý tộc thượng lưu và thương nhân giàu có. Không ít các nhà nho đã tham gia sinh hoạt văn hoá này. Tuy nhiên chưa có ai kể thú chơi này như Nguyễn Công Trứ. Điều ông làm không phải nhà nho nào cũng làm được. Không phải nhà nho nào cũng đưa việc mình đi hát ả đào vào trong thơ văn. Phải là người dám vượt lên khuôn phép của Nho giáo mới có dược việc làm đó. Ong đă chính thức công nhận đây là thú chơi tao nhã của nhà nho. Đó chính là sự “ngất ngưởng” của ông. Ông dám đề cao thú hát nói, dám phô phang sự gần gũi của mình với các ca nhi, ả đào là những người vẫn bị xã hội phong kiến xem là “xướng ca vô loài”.
Nguyễn Công Trứ tự kể, tự đánh giá về bản thán mình. Ông sòng phẳng, thẳng thắn và có ý thức rõ ràng về phong cách sống của mình. Ông tự hào vì đã có một cuộc sống hoạt động tích cực trong xã hội.
Nguyễn Công Trứ coi việc làm quan là một điều kiện, một phương tiện để thực hiện hoài bão vì dân vì nước và tài năng của mình. Do đó dẫu biết quan trường là gò bó, mất tự do song ông vẫn chọn con đường làm Quan. Điều quan trọng là trong một môi trường có nhiều trói buộc, ông vẫn thực hiện được lí tưởng xã hội của mình và vẫn giữ được bản lĩnh, cá tính.
Nguyễn Công Trứ đã sử dụng thể hát nói, một thể loại tổng hợp giữa ca nhạc và thơ, có tính chất tự do phóng khoáng phù hợp với việc thể hiện con người cá nhân.
Nguồn:
- Phân tích khổ 2 bài thơ Tràng Giang của Huy Cận (14/12) Nguồn:
- Soạn bài Thao tác lập luận bác bỏ (14/12) Nguồn:
- Soạn bài Vội Vàng của Xuân Diệu nâng cao (14/12) Nguồn:
- Phân tích bài thơ Tôi yêu em lớp 11 (20/10) Nguồn:
- Bức tranh quê trong bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ (20/10) Nguồn:


