Những đóng góp của Nguyễn Trãi cho nền thơ văn quốc âm nước nhà
Có lẽ ai ai trong những người tài của đất nước cũng muốn sau khi mình mất đi sẽ để lại cho cuộc đời ít nhất một giá trị thiêng liêng nào đó. Riêng Nguyễn Trãi không chỉ là một người đã có công mang lại độc lập cho nước nhà, ấm no cho nhân dân mà ngoài ra với tư cách là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn của dân tộc, ông đã để lại những đóng góp ở thơ quốc âm.
Chúng ta có thể nói rằng Nguyễn Trãi là một con người vĩ đại ở nhiều lĩnh vực. Quả thực là một hình ảnh “lựng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”. Trong lĩnh vực văn học thì sự đóng góp được thể hiện ở việc đẩy mạnh sự phát triển của thơ Nôm. Nguyễn Trãi đã kế thừa tác phẩm đời trần với những tinh hoa của nó cộng với vốn hiểu biết của mình làm cho Quốc âm thi tập ngày có vị trí quan trọng.
Với thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, tính dân tộc đã thể hiện rất rõ ỏ chỗ phản ánh thiên nhiên của đất nước ta và cuộc sông của cha ồng ta. Với thơ Nôm, tác giả đã có thể phản ánh một cách cụ thể sinh động hơn cái thiên nhiên ấy, cuộc sông ấy. Có người đã từng bảo “nôm na là cha mánh qué” nhưng nói cho cùng thì miêu tả phong cảnh quê hương có gì tốt hơn là hãy nói tiếng nói của mẹ đẻ, bởi nó là hương vị hơi thở ấm nồng của quê cha đất tổ. Và cái phong vị ấy đã dậm đà ăn sâu thấm nhuần trong những vần thơ của ức Trai.
Ao quan thả gửi bè rau muống
Đất bụi ương nhờ một lãnh mùng.
Có lẽ chưa lúc nào tác giả nghĩ đưa thơ Nôm vào tác phẩm của mình thì sẽ làm cho nó què đi, cùn ra. Mà thực sự qua những câu thơ ấy ta thấy Nguyễn Trãi lớn lên râ't nhiều trong tầm suy nghĩ của ta. Bởi vì ta hiểu được, cảm được và dường như cả ngửi được cái dư âm man mác giản dị mà thanh cao qua những hình ảnh được nhà thơ đưa vào.
Tả lòng thanh mùi núc nác
Vun đất ải, lãnh mồng tơi.
hoặc:
Thế sự người no ổi tiết bảy
Nhân tình ai ủ cúc mồng mười.
Một quả núc nác, rau mồng tơi, bè rau muống... còn nhiều nhiều nữa những hình ảnh cảnh vật thân quen gần gũi đều được tác giả không ngại ngần đem đặt cả vào túi thơ của ông rất đỗi tự nhiên. Bên những khóm đào, cúc, mai, lan trên các bức tứ bình thì cây chuôi của Nguyễn Trãi vẫn đường đường một sức sông tốt tươi, một bông xoan tím vẫn nở trong mùa xuân vẫy gọi.
Việt Nam là một xứ sở ở đó con người ta sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Những hình ảnh sự vật mà thường ngày vẫn gắn bó với họ là rất gần gũi, mộc mạc, giản dị và đơn sơ. Nên khi muôn thể hiện được cái hồn dân tộc Nguyễn Trãi đã chọn riêng cho mình một phong thái và một thứ ngôn ngữ độc đáo ấy là chữ Nôm, để nói về dân tộc, cũng là nói về con người Việt và nhất là để nói cả với chính mình. Quê hương, đất nước hiện ra từ thơ ông một cách giản dị và thắm thiết. Chính thế mà Quốc âm thi tập đã có tầm đóng góp quan trọng vào sự phát triển của văn học người Việt. Cái hồn và tinh hoa của dân tộc Việt được thoát ra, bay bổng lên chính là nhờ ở cách sử dụng thơ Nôm của tác giả. Điều mà trước đây trong văn học nước ta chưa có, và nếu có thì cũng bàng bạc mà thôi, chưa rõ ràng và sâu sắc.

Đóng góp vào sự nghiệp phát triển nền văn hóa văn học dân tộc của Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở đó. Trong thời đại mà Nguyễn Trãi đã sông từng xảy ra các cuộc giao lưư văn hóa. Vì thế ngôn ngữ tiếng Việt trong lúc vẫn giữ vững cấu trúc ngữ pháp và vốn từ vựng cơ bản thì tiếng Hán cũng xâm nhập vào nhiều. Đó có lẽ cũng không phải là một điều khó hiểu. Nhưng có một điều đáng nói là ông cha ta đã biết sử dụng những tinh hoa ấy để làm cho tiếng Việt càng đẹp càng phong phú thêm. Và điều đó phải kể đến công lao của Nguyễn Trãi. Ông đã từng cố gắng Việt hóa những từ vay mượn. Chẳng hạn câu “Quân tử cố cùng” (nghĩa là người quân tử biết bền vững ngay trong lúc khốn cùng) thì trong thơ ông lại viết Khó liều mới phải người quân tử Mạnh gắng thì nên kẻ trượng phu.
Hay là “nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy” (nghĩa là bậc người giả vui với núi, bậc trí giả với nước) trong sách Luận ngữ ông viết.
Đạo ta cậy bởi chân non khỏe
Lòng thế tin chi mặt nước bằng.
Ta có thể đưa ra nhiều dẫn chứng nữa song nói đến tài năng thơ văn của Nguyễn Trãi thì không thể không kể đến sự đóng góp lớn lao của ông đối với nền thơ tiếng Việt mà có thể nói đó là phần đóng góp quan trọng nhất của ông. Dẫu rằng trước đó đã có một số người làm thơ Nôm nhưng có thể coi Nguyễn Trãi là người mở đầu tuyệt tác của thơ Nôm nước nhà. “Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã chứng tỏ sự đa dạng, sức khái quát của thơ văn, ngôn ngữ Việt Nam. Trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã khởi xướng nhiều thể loại: triết lí, trữ tình, miêu tả, trào lộng và mỗi loại đều có những hài, những câu đạt đến đỉnh cao nghệ thuật” (Nguyễn Trãi). Có lẽ cho đến thế kỷ XVIII và cả sau này nữa, thơ Nôm khó có được những cao nói về thiên nhiên và tình người hay đến vậy.
Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu.
hay:
Trì thanh nguyệt hiện chăng buông cá
Rừng tiếc chim về ngại phát cây.
Một trong những thành tựu lớn thì có lẽ thành tựu lớn nhất của Nguyễn Trãi là ồ chỗ xây dựng ngôn ngữ văn học dân tộc trên cơ sở ngôn ngữ của nhân dân và ngôn ngữ của văn học dân gian. Nguyễn Trãi đã không hề đắn đo khi đem những thuật ngữ vào trong thơ mình.
Ruộng đôi ba khóm đất con ong
Đầy tớ hay cày kéo muộn màng.
hoặc:
Nên thợ nên thầy vì có học
No ăn no mặc, bởi hay làm.
Đó là những từ ngữ gắn liền với nhân dân. Cuộc sông của họ bình dị như thế nào thì tiếng nói cũng bình dị như thế ấy. Và cái hay cái tài là tác giả đã tận dụng khả năng của khẩu ngữ ấy để tả cảnh, tả lòng, tả người và tả vật. Điều dĩ nhiên là ngôn ngữ của Nguyễn Trãi có một mạch ngầm bắt nguồn từ văn học dân gian. Ngôn ngữ trong văn học dân gian vốn đã xây dựng trên cơ sở gọt giũa và cách điệu hóa ngôn ngữ hàng ngày của nhân dân, nay lại được Nguyễn Trãi thổi vào đó một nét mới khiến ngôn ngữ của ông đã nhuần ngụy lại càng nhuần nhụy hơn.
Ta thấy từ câu tục ngữ “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” ồng viết: ơ bầu thì dáng ất nên tròn Xấu tốt thì rắp khuôn.
Hoặc từ câu “tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” tác giả lại viết:
Tay ai thì lại làm nuôi miệng
Làm biếng ngồi ăn lở núi non.
Quả thật Nguyễn Trãi thật tài tình trong cách sử dụng ngôn ngữ, thể hiện một cá tính sáng tạo độc đáo và càng thể hiện sự hiểu biết của Nguyễn Trãi về tiếng nói của dân tộc. Nhờ vậy mà tác giả đã khai thác được tính tượng hình, tượng thanh rất sinh động của các cặp tiếng đôi cũng như cấu trúc đối xứng hô ứng. Điều đó đã làm cho hình tượng thơ nhịp nhàng, lấp láy, uyển chuyển và đầy màu sắc, vừa thể hiện được cái tính giản dị chân chất với tính mĩ lệ tinh tế lại có nhiều lúc gân guốc độc đáo.
Tuổi cao tóc bạc cái râu bạc Nhà ngặt, đèn xanh, con mắt xanh.
hay:
Không khảy, kè cười cùng kẻ thốt Khó khăn, người rẻ lần người roi.
Thơ ông thể hiện một cách đầy đủ và tinh tế tâm hồn phong phú, tư tưởng cao đẹp, tình cảm tế nhị, tính cách phóng khoáng một phần lớn vì ông không bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp của một thể cách thi luật cố định. Ngoài một sô" bào niêm luật chặt chẽ Nguyễn Trãi đã phá vỡ tính quy phạm bằng nhiều bài thơ khác nhưng lạ thay nó không bị nhòa mờ mà bao đời nay nó vẫn ngự trị trong lòng người đọc, nơi anh, nơi tôi và cả chúng ta nữa. Trong Quốc âm thi tập có rất nhiều bài thơ viết ít nhiều có thể cách tự do. Trong những bài thơ tám câu hoặc bốn câu, mà câu trúc đôi xứng thì số’ câu có thể lục ngôn (6) xen kẽ với thất (7) ngôn. Rỗi hóng mát thuở ngày trường Hòe lục đùn đùn tán rợp trương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã till mùi hương Lao xao chợ cá làng ngư phủ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương Lẽ có Ngu Cầm đần một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương.
Nhờ xen kẽ mà nó nhấn mạnh được ý tình tạo cảm giác đột ngột. Trong bài Cây chuối, Nguyễn Trãi viết:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, màu thâu đèm
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem.
Cũng vì tạo được sự xen kẽ mà thơ ông có câu trúc âm thanh nhịp điệu tương đôi tự do. Thơ Nôm của ức Trai không hề đơn điệu mà phù hợp, cảm xúc chân chất, hồn nhiên nhưng lại vô cùng sâu sắc.
Như vậy, Nguyễn Trãi đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng của văn học chữ Nôm. Thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ ấy, Nguyễn Trãi đúc hết những tinh hoa văn hóa dân tộc cho đất nước. Thơ Nôm Nguyễn Trãi không phải bài nào, câu nào cũng hay nhưng nhìn chung thì thấy rất ít bài sa vào khuôn sáo. Hầu hết thơ Nôm Nguyễn Trãi là những lời tâm sự chân thành bộc lộ ra một cách thoải mái, hồn nhiên. Nếu lời thơ còn có chỗ khúc mắc, nhịp thơ còn có phần chập chững thì đó là vì nhà thơ và thể thơ còn đang trong quá trình rèn giũa - và chính nhà thơ đã góp phần đầy sáng tạo vào quá trình rèn giũa ấy. Ông đã đặt nền móng vững chắc đầu tiên cho văn học chữ Nôm với Quốc âm thi tập. Đặc biệt thơ Nôm Nguyễn Trãi là tấm bia kỷ niệm xưa nhất về ngôn ngữ văn học của nước nhà. Trong đó tâm hồn trong sáng của Nguyễn Trãi cũng như thiên nhiên và cuộc sống của đất nước được ngưng đọng lại trong biết bao câu thơ trong trẻo, long lanh như ngọc. Và dù bánh xe lịch sử có quay đi thì những áng thơ văn ấy vẫn mãi mãi ở lại với đời sáng chói. Thơ Nôm của ông chính là một bông hoa đầu mùa rất mực tươi thơm trong lịch sử thơ ca tiếng Việt.
Nguồn:
- Nghị luận xã hội câu nói Nếu muốn nhìn thấy càu vồng, phải biết chấp nhận những cơn mưa (29/06) Nguồn:
- Nghị luận xã hội câu nói Cúi xuống giúp người té ngã (29/06) Nguồn:
- Nghị luận xã hội câu nói Nghèo khó là trường đại học tốt nhất (29/06) Nguồn:
- Nghị luận xã hội hãy yêu thương khi bạn còn có thể (29/06) Nguồn:
- Nghị luận xã hội về ước mơ qua tác phẩm tôi là Bêtô (29/06) Nguồn:


