Cảm nhận về bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương
Đề: Em hãy Cảm nhận về bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương trong sách Ngữ Văn lớp 9. Hocvan giới thiệu đến các bạn một số bài văn cảm nhận bài thơ viếng lăng bác hay nhất năm học 2016 vừa rồi.
Viết về lãnh tụ là một đề tài quen thuộc nhưng không hề dễ viết. Có nhiều sáng tác văn chương thuộc đề tài này, tuy nhiên những tác phẩm chinh phục được độc giả cả nước thì không nhiều. Trong đó, bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương được đánh giá là bài thơ xúc động và hấp dẫn viết về Chủ tịch Hổ Chí Minh. Với sự kính yêu, thương xót và niềm biết ơn vô hạn, nhà thơ Viễn Phương không chỉ dâng lên Bác nén tâm hương của lòng mình mà còn thay lời muốn nói cho đổng bào cả nước.
Bài thơ gồm bốn khổ, mỗi khổ như một cánh cửa dẫn về gần hơn với Bác và với trái tim nhà thơ. Toàn bài được triển khai theo bố cục từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, từ cảnh quan bên ngoài vào trong lăng Bác và từ hành trình đến trái tim. Khổ thơ thứ nhất bày tỏ hoàn cảnh của người con viếng Bác và không gian bên ngoài lăng:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre, xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Lối xưng hô thân mật “con” và “Bác” ngay lập tức cho ta cảm giác ấm nồng, thắm thiết và gần gũi biết bao. Người con đến từ “khúc ruột miển Nam” xa xôi đến thăm Bác như một cuộc trở về với cội nguồn ân tình, ân nghĩa. Sinh thời, miền Nam luôn là niềm thương nỗi nhớ của Bác. Đứng giữa quảng trường Ba Đình lịch sử, người con miền Nam có những quan sát, miêu tả đầy sức gợi. Những hình ảnh “sương”, “hàng tre hát ngát” đểu có sức biểu đạt lớn. Màn sương bao quanh lăng Bác vừa đem lại màu sắc huyền thoại, vừa là dấu hiệu của một thế giới đặc biệt, một vùng không gian thiêng liêng dành riêng cho Bác. Lựa chọn hàng tre “xanh xanh Việt Nam” để miêu tả, Viễn Phương đã bắt lấy đúng thẩn thái quan trọng và ý nghĩa nhất. Thán từ “Ổi” diễn tả một cách giản dị mà chân thực niềm xúc động và suy ngẫm của nhà thơ. Cây tre vốn là loài cây biểu tượng, từ ngàn xưa nó đã là vũ khí chiến đấu bảo vệ non sông trong đôi tay của Thánh Gióng. Đến nay, cây tre vẫn luôn được người Việt yêu quý và lựa chọn là loài cây biểu thị cho chính mình. Với những phẩm chất tương đồng với người Việt như đoàn kết, ngay thẳng, kiên trung, “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”, hàng tre quanh lăng hiện lên có ý nghĩa như sự bảo bọc của cả dân tộc dành cho người con ưu tú Nguyễn Ái Quốc - Hổ Chí Minh. Và hơn ai hết, Bác là vị lãnh tụ mà cả quốc gia, dân tộc này tự hào và thương yêu hết mực.
Khổ hai tiếp tục hành trình viếng lăng với những quan sát đầy chân thực và mang đậm liên tưởng, tưởng tượng sâu xa của nhà thơ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Bốn câu thơ ngắn gọn nhưng chứa đẩy những hình ảnh ẩn dụ và hoán dụ, đem lại màu sắc biểu tượng và suy ngẫm sâu sắc. Mặt trời thiên nhiên rực rỡ, vĩnh hằng “ngày ngày” vẫn sóng đôi cùng “mặt trời trong lãng” - Bác Hổ vĩ đại. Bằng tất cả niềm kính yêu và sự ngợi ca, Viễn Phương sử dụng hình ảnh ẩn dụ “mặt trời” để gợi về cuộc đời cao cả của Bác. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã cống hiến cả cuộc đời cho đất nước, tìm ra con đường cứu nước và lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi. Bởi vậy, Bác cũng như mặt trời, đem lại nguồn ánh sáng tự do, hơi ấm của tình đoàn kết. Cách dùng từ “rất đỏ” nhấn mạnh tư tưởng cách mạng và tình yêu nước dạt dào của Bác. Tiếp nối phía sau là hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ so sánh ngầm dòng người thương tiếc vào viếng Bác tựa như tràng hoa thành kính “dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Không nói Bác mà nói “bảy mươi chín mùa xuân”, cách nói, cách nhìn, cách gọi của Viễn Phương gợi ra cuộc đời Bác là những mùa xuân tươi đẹp, đầy ý nghĩa.
Khổ ba tập trung miêu tả trực tiếp hình ảnh của Bác. Giấc ngủ bình yên, vĩnh hằng của Hổ Chủ tịch được nâng đỡ bởi ánh sáng dịu hiền của người bạn trăng tri kỉ từ lúc sinh thời. Hình ảnh thơ đẹp, êm đềm nhưng chứa chất bao xót xa và gợi nỗi buồn thăm thẳm. Bởi lẽ:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Hiểu và chấp nhận quy luật sinh tử, nhưng nỗi đau vẫn cứ thổn thức không nguôi và “nhói ở trong tim” nhà thơ. Từng có câu nói, bạn hãy sống sao cho khi sinh ra bạn khóc còn mọi người mỉm cười và khi bạn mất đi, bạn có thể mỉm cười thanh thản còn mọi người thì rơi nước mắt. Cuộc đời Hổ Chí Minh trở thành một phần máu thịt của dân tộc, trở thành niềm tự hào và niềm thương tiếc của triệu triệu đồng bào bởi những hi sinh lớn lao của mình. Không tô vẽ, không thổi phổng, cũng không lòe loẹt lên câu thơ những câu từ to tát, Viễn Phương chân thành bày tỏ niềm tiếc thương thấm thìa như tình cảm của người con dành cho người Cha kính yêu và gẩn gũi của mình.
Khổ cuối vừa diễn tả giây phút chia xa, vừa bộc bạch những nguyện ước chân thành của người con miền Nam:
Mai về miên Nam, thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cày tre trung hiếu chốn này
Cách bộc lộ tình cảm trực tiếp và mãnh liệt “thương trào nước mắt” mang đậm tính cách Nam Bộ yêu thương. Phút chia xa lưu luyến và tràn đẩy xúc động. Viễn Phương chẳng muốn rời xa mà chỉ mong mỏi được hóa thân thành những gì nhỏ bé, khiêm nhường bấy lâu nay vẫn luôn quẩn quanh bên Bác. Điệp ngữ “muốn làm” (ba lần) nhấn mạnh cảm xúc bịn rịn trong lòng người. Mong được làm con chim dâng tiếng hót vui tươi mỗi ngày, mong làm đóa hoa dâng mùi hương thơm ngát, mong làm cây tre trung hiếu giữ gìn giấc ngủ êm đềm của Người. Những gì Viễn Phương mong mỏi đểu bình dị nhưng thật ý nghĩa. Khổ bốn như những con sóng cảm xúc, không ngừng xô vào bờ những nỗi nhớ thương, quyến luyến.
Bài thơ Viếng lăng Bác đi vào lòng người bởi cảm xúc sâu lắng, không khí thiêng liêng, kính cẩn và ý thơ, lời thơ, hình tượng thơ gợi cảm, giàu ý nghĩa. Bài thơ là tấm lòng thành kính, yêu thương, tự hào của Viễn Phương, của nhân dân cả nước dành cho Bác Hồ kính yêu. Đó cũng là truyền thống uống nước nhớ nguồn, là lối sống thủy chung, ân tình, ân nghĩa rất đáng trân trọng và gìn giữ.
Đề 2: Cảm nhận của em về hai đoạn thơ sau:
Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Bác nghe từng bước trên tiên tuyến
Lắng mỗi tin mừng tiếng súng xa. (Bác ơi, Tố Hữu)
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác,
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này... (Viếng lăng Bác, Viễn Phương)
Bài làm
Lúc sinh thời, Bác Hổ luôn dành tình cảm đặc biệt cho đổng bào và chiến sĩ miền Nam yêu dấu. Với Bác, miền Nam là máu mủ ruột thịt, là quê hương, là những gì thân thương nhất. Đồng bào miền Nam cũng hướng về Bác với lòng tin yêu và niềm kính trọng sâu sắc. Ân tình, ân nghĩa bền chặt của Bác và miền Nam trở thành ngọn lửa cảm hứng cháy mãi trong thơ ca. Ví như hai khổ thơ trên, không hẹn mà gặp, Tố Hữu trong bài thơ Bác ơi và Viễn Phương trong bài thơ Viếng lăng Bác đều nhắc đến tình cảm đẹp đẽ này như một phần không thể thiếu khi viết về Chủ tịch Hổ Chí Minh.
Đề bài đưa ra hai khổ thơ, khổ thứ tám trong bài Bác ơi của Tố Hữu và khổ thơ cuối trong bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương. Tuy ra đời ở những thời điểm khác nhau và bởi những ngòi bút khác nhau, nhưng hai khổ thơ đểu làm nổi bật tình cảm thắm thiết giữa Bác Hồ kính yêu và miền Nam ruột thịt. Bác từng nói: ‘Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”. Để đáp lại tình cảm của đổng bào miền Nam, Bác từng hứa sẽ vào thăm, nhưng chưa kịp thực hiện thì Người đã ra đi mãi mãi. Tình cảm lớn Bác dành cho
miền Nam được nhà thơ Tố Hữu bày tỏ thật cảm động:
Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Nhà thơ so sánh nỗi nhớ miền Nam của Bác với “nỗi nhớ nhà”. Không dùng mối quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân mà dùng mối quan hệ máu mủ, ruột thịt của những thành viên trong gia đình để diễn tả tình cảm của Bác. Đó là nét tự nhiên và cũng là phong cách nghệ thuật trữ tình chính trị đặc trưng của Tố Hữu. Thế nào là nhớ nhà? Tại sao nhớ miền Nam mà Bác lại mang nỗi nhớ nhà? Đó hẳn là nỗi nhớ tha thiết, bồi hồi vể những gì thân thuộc nhất, gẩn gũi nhất và thiêng liêng nhất. Cũng bởi ân tình của Bác với miền Nam là ân sâu nghĩa nặng nên chẳng còn gì cảm động hơn tình cảm dành cho mái nhà, cho những người thân thiết của mình. Bác không sinh ra ở miền Nam, nhưng lại đau nỗi đau của những con người ở đó. “Nhà” là thân thích, là tình yêu, là nỗi nhớ thương, là nơi sinh ra và cũng là nơi trở vẽ. Tự bao giờ, Bác đã coi miền Nam như một phần máu thịt không bao giờ chia xa. Miền Nam cũng dành cho Bác tình cảm sâu nặng nhất trên đời “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”. Người miền Nam luôn coi Bác là người cha với tất cả niềm tin yêu, biết ơn và kính trọng. Hai câu thơ sử dụng điệp từ “nhớ”, “mong”và phép điệp cấu trúc câu khiến nỗi nhớ thương dâng tràn, tha thiết trên từng cầu chữ. Cũng như Tố Hữu, Viễn Phương khẳng định tình cảm của nhân dần miền Nam đối với Bác mà đại diện chính là bản thân nhà thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Cách bày tỏ tình cảm trực tiếp, chân thành “thương trào nước mắt” của Viễn Phương ngay lập tức lay động sâu sắc tới tình cảm người đọc.
Bên cạnh điểm chung, hai khổ thơ trên còn có những nét riêng biệt đáng chú ý. Trước hết, bài thơ Bác ơi ra đời chỉ vài ngày sau khi Bác mất, khi miền Nam còn đang đối diện hàng giờ với mũi lê, họng súng của kẻ thù xâm lược. Bởi vậy, trong bài thơ khóc Bác, Tố Hữu cố gắng diễn tả những tâm tư trong lòng Bác, và không thể không khắc sâu niếm lo lắng thường trực, sự dõi theo của Bác với cuộc chiến đấu nơi xa:
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng tiếng súng xa.
Nỗi nhớ thương miền Nam gắn liền với nỗi đau Tổ quốc bị chia cắt, nỗi lo lắng cho tiền tuyến lớn và khát vọng đất nước được thống nhất làm anh em một nhà. Người đọc như cảm nhận được ánh nhìn dõi theo đầy lo lắng, yêu thương của người cha già dân tộc hướng về từng bước đi, từng tin tức của miền Nam yêu thương. Tuy ở ngoài Bắc, cách biệt về khoảng cách địa lí nhưng tấm lòng Người vẫn luôn đau đáu, trăn trở, vẫn kề vai sát cánh bên đồng bào và chiến sĩ trên từng mặt trận chống quân thù. Bốn dòng thơ ngắn ngủi nhưng vẫn chứa đẩy nỗi đau đớn khôn nguôi vê’ sự ra đi còn nhiều nỗi lo âu tiếc nuối của Bác và những bước đi đầy hiểm nguy, những thanh âm khốc liệt cùng không khí căng thẳng của những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Trong khi đó, bài thơ Viếng lăng Bác ra đời sau khi Bác mất nhiều năm. Không còn sự căng thẳng của chiến tranh khốc liệt nhưng niềm mong nhớ và nỗi buồn chia xa, vẫn ăm ắp trong trái tim người con miền Nam. Tình cảm chân thành lắng đọng trong những ước muốn thiết tha:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác,
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...
Đoạn thơ đặc tả tâm trạng lưu luyến không rời của nhà thơ với Bác.
Âm hưởng thơ như tiếng khóc thổn thức cố dổn nén lại và là nỗi ngậm ngùi ẩn giấu trong những hình ảnh chứa đựng khát khao được gần gũi mãi bên Bác Hổ kính yêu. Nhà thơ muốn hóa thân thành những hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên để dâng lên Bác, từ tiếng hót mê say, hương thơm hoa cỏ đến cây tre trung hiếu canh giữ quanh lăng Bác. Nhịp điệu khổ thơ dồn dập với điệp ngữ “muốn làm” (ba lần) và các hình ảnh gợi cảm liên tiếp xuất hiện gợi tả những xúc cảm mãnh liệt, chân tình.
Hai khổ thơ tuy thuộc hai bài thơ khác nhau nhưng đểu hỗ trợ cho nhau, bổ sung cho nhau và cùng làm nổi bật mối ân tình ân nghĩa sâu nặng giữa miền Nam và Hồ Chủ tịch. Tình cảm lớn được diễn tả bởi những điểu bình dị, gần gũi nên không khiến người đọc có cảm giác xa cách mà thức dậy trong lòng người sự đổng cảm mạnh mẽ với hai nhà thơ và tình cảm lớn với lãnh tụ, với đổng bào ruột thịt.
Nguồn:
- Dàn ý cảm nhận vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương cho ngữ văn lớp 9 (03/11) Nguồn:
- Dàn ý cảm nhận về cái chết của Vũ Nương và nguyên nhân sâu xa gây bi kịch cho vũ nương (03/11) Nguồn:
- Dàn ý chi tiết cái bóng trong chuyện người con gái Nam Xương (03/11) Nguồn:
- Phân tích đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí (09/04) Nguồn:
- Phân tích cảm nhận của em về Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (04/04) Nguồn:


