Cách làm bài văn nghị luận xã hội chi tiết hay nhất

Thứ sáu , 31/03/2017, 12:23 GMT+7
Hướng dẫn chi tiết các em Cách làm bài văn nghị luận xã hội, Các bước làm bài nghị luận và cách làm dàn ý chi tiết bài văn nghị luận xã hội hay nhất
I. PHÂN TÍCH ĐỂ, LẬP DÀN Ý CHO BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
 
1. Phân tích đề
 
Tiếp cận một đề văn (nghị luận), ta phải dành một vài phút đọc và nghiên cứu đề văn ấy để làm cho trúng đề; tránh bị lỏi đề, lạc đề.
 
Phân tích đề là để xác định rõ nội dung và yêu cầu của đề, kiểu bài phải làm, giới hạn của bài văn.
 
Ví dụ: Bàn vê thói ăn chơi đua đòi trong học sinh hiện nay.
 
- Nội dung của đề: Thói ăn chơi đua đòi trong học sinh hiện nay.
 
- Yêu cầu: Bàn luận.
 
Kiểu bài: Kết hợp các thao tác giải thích, chứng minh, hình luận một vấn đề xã hội - một hiện tượng tiêu cực trong học sinh.
 
-- Giới hạn của đề: trong học sinh hiện nay, chứ không phải trong lớp trẻ hiện nay.
 
2. Lập dàn ý
 
Dàn ý của một bài văn tựa như bản thiết kế, bản vẽ của một công trình nào đó. iMuốn xây biệt thự phải có bản thiết kế; muốn viết một bài văn phải lập dàn ý.
 
Có dàn ý sơ lược, đại cương; có dàn ý chi tiết. Bài văn viết ở phòng thi, viết tại lớp chi có thể làm dàn ý đại cương; bài văn ở nhà, có thể làm dàn ý chi tiết.
 
Phải căn cứ vào đề văn cụ thể để lập dàn ý. Một dàn ý đúng, hợp lí mới có thể viết được một bài văn tốt, đúng và hay. Lập dàn ý phải được tập dượt để biến thành một bước trong trình tự, một kĩ năng trong tập làm văn. Phải nắm chắc đối tượng, nám chắc kiểu bài thì làm dàn ý mới đúng, mới tốt.
 
Tóm lại, lập dàn ý vừa là kĩ năng, vừa là phương pháp viết văn, làm văn. Đối với các đề văn phân tích tác phẩm văn học, cần chú ý đến thi pháp và các tình tiết nghệ thuật; cần tránh thiên hướng xã hội hóa dung tục.
 
3. Ghi nhớ
 
- Lập dàn ý trong bài văn nghị luận xã hội là sắp xếp các ý tìm được sau khi đã tìm hiểu kĩ đề. Việc tìm ý phải theo một trình tự hợp lí, làm cho bài văn có lập luận chặt chẽ và có sức thuyết phục người đọc.
 
- Một bài văn nghị luận xã hội thường có ba phần:
 
a) Mở hài: Thường có hai ý:
 
- Dẫn dắt vấn đề: Nêu xuất xứ của vấn đề cần bình luận, hoặc nêu hoàn cảnh xã hội có liên quan đến vấn đề, hoặc nêu mục đích của việc bình luận.
 
- Nêu vấn đề: giới thiệu nội dung chủ yếu của vấn đề và nêu câu trích dẫn trong đề bài. 
 
b) Thân bài:
 
- Giải thích, chứng minh hoặc bình luận thẳng vào vấn đề (nếu đề bài chỉ có một luận điểm).
 
- Lần lượt giải thích, chứng minh, bình luận từng khía cạnh của vấn đề (nếu đề bài có nhiều luận điểm).
 
c. Kết bài:
 
- Nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề.
 
- Rút ra bài học cho bản thân hoặc mở ra một vấn đề khác có liên quan với vấn đề bình luận.
 
3. Dàn ý được trình bày bằng những câu ngắn gọn, gạch đầu dòng, phàn biệt các ý chính, ý phụ, và sắp xếp các ý đó theo một trình tự lập luận chặt chẽ, hợp lí, tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
 
II. THAO TÁC LẬP LUẬN PHÂN TÍCH
 
1. Phân tích
 
Phân tích là phương pháp phán chia (trong thực tế hay trong ý nghĩa) sự vật, hiện tư¬ợng, thuộc tính hay quan hệ ra thành các yếu tố cấu thành, sau đó nghiên cứu từng yếu tố cấu thành ấy một cách riêng rẽ, để cuối cùng sử dụng thao tác tổng hợp tiếp theo.
 
Muốn phân tích phải dùng lí lẽ để giảng giải, để cắt nghĩa, bàn bạc,... Có khi phải phân tích để chỉ ra các yếu tố, các chi tiết hợp thành. Có lúc phân tích một từ ngữ, một hình ảnh,... tạo nên ý (nội dung) và vẻ đẹp, cái hay (hình thức) của một câu, một đoạn thơ, văn.
 
"Không có phân tích thì không có tổng hợp" (F.Ảng-ghen).
 
2. Tổng hợp
 
Tổng hợp trong làm văn không có ý nghĩa là một phép cộng đơn giản. Tổng hợp là bằng cách xác định những cái chung cũng như cái quy luật liên hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố cấu thành ấy, ta lại kết hợp được chúng lại với'nhau thành một chỉnh thể chặt chẽ.
 
Quá trình phân tích là một khâu tiến tới tổng hợp, vấn đề được nâng dần lên cao hơn, sâu hơn, từ những chi tiết, bộ phận được trừu tượng hoá, khái quát hóa. Khi bạt đầu phân tích, chủ thể nhận thức đã có quan niệm chung về sự vật, tức là có sự tổng hợp ít nhiều rồi; và sau khi tìm hiểu được một hoặc những bộ phận của chỉnh thể, chủ thể nhận thức tiến hành khái quát hóa, tức là tiến hành tổng hợp được những tài liệu phân tích đầu tiên. Cứ như vậy phân tích và tổng hợp xen kẽ nhau, bổ sung cho nhau cho đến khi vấn đề, sự kiện được nhận thức như một chỉnh thể.
 
III. THAO TÁC LẬP LUẬN so SÁNH
 
Viết văn nghị luận chính trị xã hội cũng như nghị luận văn học đều phải biết sử dụng thao tác so sánh. Nếu trong thơ, truyện, kí,... nhờ so sánh mà tạo nên những hình ảnh, hình tượng văn chương hoa lệ để lại dấu ấn trong tâm hồn người đọc thì trong nghị luận văn học, thao tác so sánh, đối chiếu cực kì quan trọng làm lóe sáng những vấn đề mà ta đang giải thích, chứng minh, bình giảng, phân tích, bình luận, làm cho các luận cứ và luận chứng đầy sức thuyết phục. Nhờ so sánh mà lập luận trở nên chặt chẽ, hùng biện, lí lẽ đanh thép hùng hồn, nội dung vấn đề dược trình bày mang tính phong phú, sáu rộng. So sánh văn học khắc phục được những hạn chế như sơ lược, một chiều, "dóng cửa thắp đèn, chê trăng rằm”, "nhất thiên hạ", "nhất thê giới".
 
Muốn sử dụng thao tác so sánh văn học thì phải học và đọc nhiều, phải nhớ và nắm bắt được bản chất sự việc và nội dung vấn đề ta đang nghị luận.
 
Đọc những đoạn so sánh văn học (tương đồng hay tương phản) thú vị lắm, "... dầu ăn một món ăn ngon đến dâu cũng không thích bằng. Sướng lắm!" (Lời của nhân vật Hộ trong truyện "Đời thừa" của Nam Cao).
 
So sánh văn học rất khó, nhưng rất hay. Học sinh trung học có làm được không? Nhiều học sinh đã biết làm và làm khá hay. Phần lớn các bài thi văn giành được giải.
 
V. THAO TÁC LẬP LUẬN BÁC BỎ (Phủ định)
 
1. Những cuộc bút chiến, luận chiến trên báo chí, cuộc khẩu chiến trong đời sống hằng ngày, những cuộc tranh luận, chất vấn trên hội trường, những cuộc tranh tụng ở tòa án,... các đương sự đôi bên đều phải sử dụng thao tác lập luận bác bỏ.
 
2. Yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ
 
- Bác bỏ luận điểm, luận cứ, cách lập luận... của đối phương, chỉ ra những điều sai trái; hoặc phê phán quan điểm lập trường, lối ngụy biện, hoặc sự hạn hẹp, khiếm khuyết về tri thức, về vốn sống của đối phương.
 
- Trình bày và khẳng định ý kiến, quan điểm lập trường của mình là đúng. 
 
- Ngoài yêu cẩu lí lẽ phải sác bén, luận cứ là hiển nhiên, lập luận phải chạt chỗ, đầy sức thuyết phục, thao tác lập luận bác bỏ cần thể hiện một nhân cách văn hóa, tính chiến đấu, tính lịch thiệp, không nên, không được khiếm nhã, hàng tôm hàng cá gây nên sự hài hước và sự coi thường của thính giả, độc giả. Hiện tượng này, nhiều người đã thấy trên báo chí và trong cuộc sống.
 
b. Cách sử dụng thao tác lập luận hác bỏ Vạch ra cái sai về luận điểm để bác bỏ
 
- Chỉ ra cái sai về luận cứ để bác bỏ
 
- Nêu ra cái sai về lập luận để bác bỏ
 
- Phê phán quan điểm lập trường sai trái
 
THAO TÁC LẬP LUẬN BÌNH LUẬN
 
1. Bình luận xã hội, chính trị
 
1.1 Đặc điểm bản chất
 
Bình luận là kiểu bài, là phương pháp nghị luận sử dụng thao tác bàn bạc, phân tích giúp người đọc, người nghe hiểu đúng, hiểu sâu rộng một vấn đề, chỉ rõ vấn đề ấy là đúng hay sai, tốt hay xấu, cũ hay mới..., đồng thời giúp người nghe người đọc có thái độ đúng, hành động đúng đối với vấn đề đang bình luận.
 
Vì vậy, một bài binh luận phải đạt được ba mục tiêu cụ thể:
 
- Một là, phân biệt rõ đúng, sai, xấu, tốt, cũ, mới... của vấn đề.
 
- Hai là, mở rộng, khơi sâu tầm nhận thức, sự hiểu biết về vấn đề đó.
 
- Ba là, xác định rõ thái độ, tình cảm, hành động đúng đắn khi đối diện vấn đề ấy.
 
1.2. Thao tác bình luận
 
Một bài bình luận phải nâng vấn đề có ý nghĩa khái quát, có giá trị lí luận và thực tiễn trên cơ sở một quan điểm, một lập trường nhất định.
 
Để đạt được ba mục tiêu của bài bình luận, người viết phải sử dụng thao tác bình luận kết hợp với thao tác giải thích và thao tác chứng minh.
 
Muốn phàn biệt rõ vấn đề đúng hay sai, tốt hay xấu, cũ hay mới - ta phải giải thích, phải trả lời thỏa đáng các câu hỏi: nghĩa là gì? như thế nào? tại sao? vì sao?
 
Muốn mở rộng, khơi sâu tầm nhận thức sự hiểu biết về vấn đề đó ta phải bàn luận, so sánh, đối chiếu lí luận với thực tế, nghĩa là ta phải bình, phải luận kết hợp vcd chứng minh.
 
Việc kết hợp thao tác giải thích, thao tác chứng minh với thao tác bình và luận trong một bài văn bình luận mang tính tất yếu. Vì thế, một bài bình luận nếu viết nông cạn chẳng khác gì một bài văn giải thích được thêm thắt vài dẫn chứng.
 
1.3. Ba bước của một bài bình luận
 
Trong thân bài của bài bình luận đối với học sinh và rất nhiều người cần lần lượt phát triển theo 3 bước:
 
Bước một, phải giải thích rõ vấn đề. Một từ ngữ khó, một khái niệm mới cần được giải thích rõ. Nghĩa đen, nghĩa bóng, ý nghĩa của vấn đề phải được giải thích cụ thể.
Bước một giải thích này được coi như soi sáng vấn đề bước đầu rất cần thiết.
 
Bước hai, phải bình để chỉ rõ đúng sai, xấu tốt, cũ mới của vấn đề. Tại sao đúng (sai)? Đúng sai như thế nào? Phải nêu lí lẽ trên một quan điểm, lập trường nhất định. Phần bình thổ hiện rõ cái yêu, cái ghét, sự tiến bộ hay lạc hậu, hạn chế về mặt nhận thức, về tư tưởng, tình cảm của người bình luận. Phần bình cần một sự sắc sảo. 
 
Bước ha, phải luận, nghĩa là phải bàn bạc, bàn luận so sánh, đối chiếu, khơi sâu, mở rộng vấn đề; đặt vấn đề trong nhiều mối tương quan về gia đình, xã hội, lịch sử, về thực tiễn để bàn và luận cho thỏa đáng. Bước ba của một bài văn bình luận chính là nơi đế phân biệt mức độ, chất lượng, của trình độ của bài văn, của người viết.
 
Chú ý: Ba bước của một bài binh luận cần rạch ròi trong nhận thức. Những bài bình luận một câu tục ngữ, một câu ca dao, một ý kiến ngắn (Ví dụ: "Khônẹ có gì quý hơn độc lập, tự do") thường thường ở thân bài nên tiến hành theo trình tự 3 bước.
 
Đối với những bình luận về một vấn đề được trích dẫn trong một câu nói dài có nhiều vế, ta phải:
 
Có lúc gộp bước 2 và bước 3, kết hợp bình và luận trong từng vế.
 
Có lúc phải gộp cả ba bước trong từng vế cụ thể.
Đọc các bài văn minh họa sẽ thấy rõ. Sự sáng tạo trong văn bình luận phản ánh tầm trí tuệ và độ thông minh, nhạy cảm của người học sinh.
 
1.4. Dàn ỷ một hài văn hình luận
 
a. Mở bài:
 
Cần có 2 nhân tố sau, gắn liền với nhau, hô ứng nhau; dẫn, nhập.
 
Dẫn: là dẫn dắt hướng về luận đề. Cần đúng hướng, chưa vội nêu bật ý nghĩa của vấn đề. Có nhiều cách dẫn dắt như nêu xuất xứ của vấn đề, hoặc nêu hoàn cảnh (xã hội, lịch sử, nghệ thuật, học thuật,...) của vấn đề xuất hiện, nảy sinh. Cũng có thể nêu mục đích của vấn đề phải bình luận. Cũng có trường hợp sử dụng cách so sánh, nghi vấn hoặc tương phản,... Cần biến hóa linh hoạt.
 
Nhập: là nhập đề. Dẫn phải gắn liền với nhập như hình với bóng. Nhập tức là nêu vấn đề phải bình luận. Nếu là danh ngôn, câu văn, câu thơ, ca dao, tục ngữ được chỉ định trong đề bài, thì ta phải giới thiệu trích dẫn và đặt vào ngoặc kép.
 
- Mở bài văn bình luận cần thể hiện một phong độ và sự sâu sắc.
 
b. Thân hài: Có ba bước sau:
 
-Bước I, phải giải thích vấn đề, giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng, rút ra ý nghĩa của vấn đề. Tục ngữ, ca dao thì phải giải thích nghĩa đen và nghĩa bóng. Câu văn, câu danh ngôn, câu thơ (nhất là thơ cổ)... ta phải giải thích từ khó, khái niệm, từ đó tìm ra hàm nghĩa, nội dung ý nghĩa. Không thể đơn giản bước một, nếu là bình luận ca dao, tục ngữ, thơ văn cổ.
 
-Bước 2, là hình.
 
Khẳng định vấn đề là đúng hoặc sai. Dùng lí lẽ phân tích đúng hoặc sai của vấn đề. Chỉ ra được nguyên nhân: tại sao đúng? vì sao sai? Đúng sai như thế nào? Nếu thiếu lí lẽ hoặc lí lẽ nông cạn, nếu thiếu kiến thức hoặc hiểu biết lờ mờ, thì làm sao mà bình, mà khen, chê được. Có lúc người viết sử dụng một vài dẫn chứng để minh họa cho cái sai, cái đúng của vấn đề. Quan điểm, lập trường nhận thức về lí tưởng, đạo đức, về học thuật của người bình luận thể hiện rõ ở phần bình này. Cần một cách viết sắc và gọn, linh hoạt, ít sử dụng câu dài. Tính chất tranh luận tự biện ngầm được bộc lộ.
 
-Bước 3, là luận.
 
Luận là bàn bạc, bàn luận, mở rộng, lật đi lật lại vấn đề, đối chiếu vấn đề (về các mặt lịch sử, xã hội, học thuật, về lí luận và thực tiễn, trong không gian, thời gian và các lĩnh vực...). 
 
Có lúc so sánh với các vấn đề tương quan, liên quan. Cũng có lúc đánh giá vấn đề, nêu bật tác dụng và tác hại, mặt tích cực hoặc hạn chế của vấn đề.
Hay nhất và khó nhất là ở phần luận. Nó thể hiện độ sâu rộng của bài bình luận. Nếu bài bình luận chỉ dừng ở bước 2, thì có khác gì bài giải thích!
 
Chú ý:
 
Ba bước trong một bài bình luận là những bước đi cơ bản, cần có và phải có. Học sinh cần định hình ba bước ấy. Làm văn nói chung, bình luận nói riêng, phải căn cứ vào đề bài cụ thể, phàn tích cụ thể để vận dụng sáng tạo. Từ khuôn mẫu mà sáng tạo, ấy là làm văn.
 
- Bình luận ca dao, tục ngữ, cổ thi - nên có 3 bước
- Có vấn đề phải bình luận, đã rõ về mặt ngôn từ và nội dung, thí ta bình và luận ngay.
- Có vấn đề phải bình luận là câu văn, câu danh ngôn có nhiều vế, mỗi vế là một khía cạnh của vấn đề thì sau bước một, ta kết hợp bình và luận từng vế một, đi sâu vào vế chính, vào trọng điểm.
 
c. Kết bài:
 
Nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề đang bình luận Rút ra bài học (tư tưởng, tình cảm, nhận thức...), nêu phương hướng hành động.
- Mở ra một vấn đề liên quan với vấn đề đang bình luận (vấn đề bình luận đã khép lại, một vấn đề mới lại được nêu ra, xuất phát từ vấn đề trước - rất hay, rất khó, làm văn trong nhà trường ít có?)
 
2. Bình luận văn chương
 
2.1. Bình luận văn chương là kiểu bài bình luận trong đó, người viết, từ nhận thức, quan điểm của mình đưa ra những ý kiến (đúng đắn, tiến bộ) để bàn bạc, phân tích, 
đánh giá một hiện tượng văn học, một ý kiến, một nhận định nào đó về văn học (một tác giả, một tác phẩm, một trào lưu văn học, một giai đoạn văn học,...)
 
Bình luận văn chương giúp người đọc, người nghe từ những nhận định, đánh giá của người viết mà cảm nhận, mà hiểu đúng, hiểu sâu, hiểu rộng,... một vấn đề văn học.
 
Bình luận một ý kiến, một nhận định về văn học là đi tới cái đích khẳng định hoặc bác bỏ, chỉ ra mặt đúng, mặt sai của vấn đề. Bình luận một câu văn, câu thơ, một tác phẩm là đánh giá cái hay, cái hạn chế, nêu bật tác dụng tư tưởng, nghệ thuật, sự đóng góp của tác giả vào tiến trình văn học của dân tộc hay thời đại.
 
2.2. Điều kiện cẩn và đủ để làm một hài hình luận văn chương.
 
Viết bình luận văn chương cần có những điều kiện sau:
- Một là, nắm vững phương pháp, thao tác và dàn ý một bài bình luận.
- Hai là, ngoài nhũng hiểu biết vể xã hội, về lịch sử liên quan đến vấn đề bình luận, người viết cần có kiến thức về văn học, về tác giả và tác phẩm, về lí luận vãn học.
- Ba là, quan điểm, quan niệm về mĩ học, về văn học nghệ thuật: đúng đắn, tiến bộ.
- Bốn là, cần tránh một thái độ cực đoan, khòng xuất phát từ học thuật mà chỉ xu hướng, vụ lợi.
 
2.3. Sự khác nhau về bình luận chính trị xã hội với bình luận văn chương
 
- Giống nhau ở các bước làm bài theo một dàn ý (phương pháp chung), phải biết kết hợp các thao tác giải thích, chứng minh và bình luận
- Yêu cầu của đề văn, nội dung đưa ra bình luận, chất văn là những cơ sở để khu biệt bình luận chính trị xã hội với bình luận văn chương.
 
2. Những kiêu bài nghị luận hỗn hợp ta thường gập;
 
Càng học lên, từ lớp 11 đến lớp 12, các đề thi tốt nghiệp Trung học phổ thông, thi vào Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng và Đại học, ta thường phải tiếp cận, đối diện với các đề thi nghị luận hỗn hợp. Các bài phê bình, bút chiến, khoá luận tốt nghiệp,... là những bài nghị luận hỗn hợp. 
Nguồn: